Nghiên cứu khoa học tổ chức phục vụ xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong giai đoạn 1990-2015

Công tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học tổ chức đã góp phần chuẩn bị luận cứ về lý luận và thực tiễn cho hoạch định chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ở lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức trong gần 25 năm qua ( từ khi Viện Khoa học tổ chức nhà nước mà tiền thân là Trung tâm Thông tin – Tư liệu thuộc Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ được thành lập ngày 01/12/1990) đã thật sự trở thành một chức năng nhiệm vụ, một lĩnh vực hoạt động quan trọng của Bộ Nội vụ và của nhiều cơ quan, tổ chức làm công tác tổ chức nhà nước ở các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn nhân sự cao cấp Bộ Nội vụ trong buổi đầu xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và kháng chiến kiến quốc

Bộ Nội vụ là một trong 13 Bộ của Chính phủ lâm thời được thành lập ngày 28/8/1945. Ngay từ ngày đầu thành lập Bộ Nội vụ đã có vị trí đặc biệt quan trọng trong cơ cấu Chính phủ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời giao thực hiện chức năng: Tổ chức, xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền cách mạng, đảm bảo an ninh chính trị, trị an và đảm nhiệm một phần chức năng của Chủ tịch Phủ, theo dõi điều hành công tác nội trị, pháp chế, hành chính công và điều phối hoạt động của các bộ khác. Có thể thấy tất cả các lĩnh vực công tác Bộ Nội vụ được giao đảm nhiệm đều là những lĩnh vực quan trọng có tính chất nội trị quốc gia. Do vị trí đặc biệt quan trọng của Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời, Chính phủ liên hiệp kháng chiến nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm lựa chọn nhân sự cao cấp bố trí vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của Bộ Nội vụ. 

Vai trò của Bộ Nội vụ trong tiến trình cải cách hành chính nhà nước

1. Cơ sở chính trị - pháp lý của cải cách bộ máy nhà nước mà trọng tâm là cải cách nền hành chính Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã quyết định đường lối đổi mới đất nước, một quyết định có tính cách mạng từ nhận thức tới hành động trong việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển đổi có ý nghĩa lịch sử, Đảng và nhà nước ta đã vượt lên chính mình, tạo nền tảng cho một thời kì phát triển kinh tế - xã hội đầy sinh động với nhiều thành tựu ngoạn mục đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng nghiêm trọng trước bờ vực của sự sụp đổ để phát triển từ đầu những năm 90 trở lại đây.

Viện Khoa học tổ chức nhà nước - 25 năm xây dựng và phát triển

I. Quá trình hình thành và phát triển Từ năm 1986, Việt Nam đã bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đem lại những thành công ban đầu vô cùng quan trọng, giúp đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng đe dọa sự tồn vong của chế độ, với vai trò là cơ quan tham mưu của Đảng và Nhà nước về công tác tổ chức bộ máy nhà nước và công tác cán bộ, Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã nhận thức rõ trách nhiệm của mình về sự cần thiết phải có tổ chức nghiên cứu về khoa học tổ chức nhà nước một cách cơ bản, có hệ thống, nhằm hình thành lý luận khoa học làm cơ sở cho các quyết định cải cách bộ máy nhà nước cải cách nền hành chính phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở Nghị định số 135-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ, ngày 01/12/1990 Bộ trưởng, Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ Phan Ngọc Tường đã ký ban hành Quy định số 539/TCCP thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và phương hướng hoạt động của Trung tâm Thông tin - Tư liệu - tiền thân của Viện Khoa học tổ chức nhà nước ngày nay.  Tháng 8/1991, Trung tâm Thông tin - Tư liệu đổi tên là Trung tâm nghiên cứu Khoa học và Thông tin.

Một số vấn đề về trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay

Công vụ là một loại hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, nói đến công vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Trách nhiệm công vụ là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ đó. Một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả đều dựa trên cơ sở đề cao tính trách nhiệm với tinh thần tận tụy, mẫn cán và làm tròn bổn phận của cán bộ, công chức. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả và nhấn mạnh đến vấn đề trách nhiệm công vụ. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trình bày những nội dung cơ bản về trách nhiệm công vụ, qua đó góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc xây dựng, hoàn thiện chính sách về quản lý, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có đề cao và đảm bảo thực hiện trách nhiệm của cán bộ, công chức trong hoạt động thực thi công vụ.  

Kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức trẻ sau tuyển dụng ở một số nước trên Thế giới và gợi ý vận dụng cho Việt Nam

Trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì nguồn lực con người giữ vai trò quyết định, trong đó, có đội ngũ công chức, viên chức. Với vai trò người thực thi công vụ, cung ứng các dịch vụ công, đội ngũ công chức, viên chức là lực lượng quan trọng trong việc tham mưu hoạch định chính sách và cũng là đối tượng trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Do đó, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ của công chức, viên chức thì công tác đào tạo, bồi dưỡng là một vấn đề quan trọng được ưu tiên ở hầu hết các quốc gia.

Một số phương pháp tổ chức phong trào thi đua đạt hiệu quả trong giai đoạn hiện nay

Sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị khóa IX, công tác thi đua, khen thưởng đã có chuyển biến tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại và tăng cường đoàn kết dân tộc. Phong trào thi đua yêu nước đã được tổ chức sâu rộng, từng bước đổi mới nội dung, hình thức phát động thi đua, bám sát thực tiễn, gắn với Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương, đơn vị. Công tác khen thưởng cơ bản bảo đảm theo quy định của pháp luật, đã động viên, tôn vinh kịp thời tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt đã được quan tâm hơn. Hệ thống pháp luật về thi đua, khen thưởng từng bước được hoàn thiện. Bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng các cấp được củng cố, kiện toàn. Các cơ quan truyền thông đại chúng có nhiều hình thức tuyên truyền về các phong trào thi đua và biểu dương người tốt, việc tốt.

Vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp về giáo dục, đào tạo – Kinh nghiệm của Vương quốc Thụy Điển

1.  Vương quốc Thụy Điển Thụy Điển là một nước có nền quân chủ lập hiến. Quốc hội (Riksdag) chỉ có một viện bao gồm 349 đại biểu và được bầu 4 năm một lần. Hiện nay trong Quốc hội có 8 đảng, trong đó Đảng Dân chủ xã hội có nhiều phiếu bầu nhất (37,66 phiếu tương đương với 112 ghế). Quốc hội bổ nhiệm Thủ tướng, Thủ tướng sẽ là người bổ nhiệm các Bộ trưởng cho Chính phủ của mình. Hiện nay Chính phủ Thụy Điển là Chính phủ thiểu số của Đảng Dân chủ xã hội với sự ủng hộ của Đảng Xanh và Đảng Cánh tả.

Mối tương quan giữa hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư và thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở

1. Lợi ích của việc phát huy hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở Nói đến sức mạnh của nhà nước, ngày xưa được đo lường bằng số lượng dân cư, quy mô lãnh thổ, quân số binh sĩ... ngày nay được so sánh bằng mức tăng và quy mô GDP, chỉ số phát triển con người HDI, chỉ tiêu quân sự...; nguyên tắc của nhà nước dựa trên kế hoạch và mệnh lệnh, phát triển mạnh theo chiều dọc. Hình thức hoạt động của cơ chế nhà nước là các khuôn khổ cứng của luật pháp, quy định và hoạt động can thiệp vào hoạt động kinh tế, xã hội.

Kinh nghiệm tổ chức chính quyền đô thị một số thành phố lớn trên Thế giới

          Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương, trong đó có mô hình chính quyền đô thị là vấn đề mới, khó và phức tạp nhưng có ý nghĩa quan trọng ở Việt Nam hiện nay. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp; nghiên cứu tổ chức, thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường ”.  

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với Hiệp hội ở Việt Nam hiện nay

Hiệp hội các tổ chức kinh tế (sau đây gọi tắt là Hiệp hội) là tổ chức xã hội nghề nghiệp tập hợp các doanh nghiệp cùng ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhằm mục đích hợp tác, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, thoả thuận, điều hoà về quy mô sản xuất, giá cả, chất lượng sản phẩm, thị trường, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở - Những nội dung cơ bản

1. Đặc điểm của chính quyền cơ sở Hệ thống 4 cấp của quản lý hành chính nhà nước của nước ta hiện nay gồm: Trung ương - tỉnh, thành phố - quận, huyện và xã. Bốn cấp quản lý này được tổ chức theo một hệ thống dọc. Từ trên xuống sẽ là trung ương - địa phương và cơ sở. Nếu nhìn dưới lên sẽ là cơ sở - địa phương và toàn quốc. Đó chính là tác động hai chiều làm nổi bật vai trò đặc biệt quan trọng của cơ sở. Nói đến chính quyền nhà nước ở cơ sở là nói đến chính quyền cấp xã. Xã là một khái niệm hành chính ở cơ sở, ổn định và cố định ở nông thôn.

Những đặc điểm và giá trị cơ bản của văn hóa công vụ

Công vụ là phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân, gắn với quyền lực nhà nước, là hoạt động của cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ được giao. Trong các tài liệu nghiên cứu về công vụ, người ta xác định “công vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực - pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước hoặc những người khác khi được nhà nước trao quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội”. Công vụ thường gắn liền với văn hóa công vụ, là đề cập đến những giá trị cơ bản của hoạt động công vụ, của người thực thi công vụ, của một quốc gia, một khu vực. Các quốc gia tiến bộ đều mong muốn có được một nền công vụ chuyên nghiệp, trong sạch, dân chủ, khách quan đảm bảo bộ máy nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả nhằm phục vụ người dân ngày một tốt hơn.

Kinh nghiệm của một số quốc gia trên Thế giới về thu hút và trọng dụng người có tài năng cho nền công vụ

          Việc phát triển, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người có tài năng có vị trí đặc biệt quan trọng và trở thành chiến lược của nhiều nước trên thế giới. Mỗi nước có những cách tiếp cận khác nhau về thu hút, trọng dụng người có tài năng, nhưng mục đích cuối cùng vẫn là làm thế nào để có được một đội ngũ những người có năng lực thực sự, có đạo đức nghề nghiệp vào làm việc trong các cơ quan của chính quyền. Trong phạm vi bài viết này tác giả giới thiệu kinh nghiệm của 6 nước có nền kinh tế khá phát triển, với nền hành chính hiện đại, đó là: Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore và những kinh nghiệm liên quan mà các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước thuộc Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) đang sử dụng để thu hút và trọng dụng người có tài năng trong nền công vụ. Trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể áp dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Administrative Reforms under New Public Management Doctrine in Japan and Some ASEAN Countries

          1. Background At the end of the twentieth century, administrative reforms became a popular trend not only in developed countries but also in developing countries. In Western democracies, the main theme, which was in vogue in the 1980s, of administrative reforms was "small government, big society". In the decade of 90s, ideological impetus for reform was slightly changed with the slogan "reinventing government" (Osborne and Gaebler). Not just giving a strong hit to bureaucracy, leaders who advocate the "neo-liberalism" (new liberal) supported the government reforms in the direction of "works better and costs less". The leaders of the world have welcomed a new management tool from the private sector to make government more accountable for theirperformance results. In some countries such as the United Kingdom, New Zealand and Australia, such radical reforms as privatization, market-testing, contracting - out on the basis of theories of public choice and semi-market had been implemented. Consequently, all of the efforts were under the cover of the new theory entitled New Public Management".

Một số kinh nghiệm trong thực hiện cải cách thủ tục hành chính

Quan điểm cải cách hành chính (CCHC) ở nước ta, mà xuất phát điểm là cải cách thủ tục hành chính (TTHC) được đề ra lần đầu tiên tại Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước TTHC trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức. Khi đó, cải cách nền hành chính nhà nước với tư cách là một hệ thống, đồng bộ đúng với ý nghĩa và tầm quan trọng của nó thực sự được quan tâm và trở thành chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước. 

Cải cách hành chính theo lý thuyết quản lý công mới ở Nhật Bản và một số nước ASEAN

          1. Đặt vấn đề: Vào những năm cuối của thế kỷ XX, cải cách hành chính trở thành một xu thế phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển. Ở các nước dân chủ phương Tây, chủ đề cải cách hành chính thịnh hành trong những năm 1980 là “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn”. Vào thập niên những năm 1990, tư tưởng làm động lực cho cải cách được thay đổi chút ít với khẩu hiệu “sáng tạo lại chính phủ” (Osborne và Gaebler). Không chỉ đánh mạnh vào chế độ quan liêu, các nhà lãnh đạo theo “chủ nghĩa tự do mới” (new liberal) đã ủng hộ việc cải cách chính phủ theo hướng “các công việc sẽ được thực hiện tốt hơn nhưng với chi phí thấp hơn”. Các nhà lãnh đạo trên thế giới đã chào đón một công cụ quản lý mới từ khu vực tư nhân nhằm làm cho Chính phủ có trách nhiệm hơn với kết quả hoạt động. Ở một vài nước như Vương Quốc Anh, Newzeland và Úc, các cải cách mang tính cấp tiến như tư nhân hoá, thử nghiệm thị trường, hợp đồng bên ngoài (contracting - out) trên cơ sở lý thuyết “lựa chọn công cộng” và “bán thị trường” (quasi - market) đã được triển khai. Kết quả là tất cả những nỗ lực đó được bao hàm dưới cái tên Quản lý công mới - “New Public Management”.

Đánh giá hoạt động khu vực công nhằm nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ - Một cách nhìn từ kinh nghiệm triển khai đo lường hiệu quả hoạt động cơ chế một cửa

Trong hơn 2 thập kỷ trở lại đây, các nước trên thế giới đều có những nỗ lực cải cách để nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công. Câu hỏi “Cải thiện chất lượng dịch vụ công là gì” cũng hiểu chính xác thế nào là “nâng cao” vẫn còn là những tranh cãi thảo luận của các nhà khoa học hành chính. Thực tế cho thấy có nhiều quan điểm, nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của tổ chức và những nghiên cứu này đã chỉ ra mối quan hệ trực tiếp giữa hiệu quả hoạt động của tổ chức, chất lượng nền công vụ đối với vấn đề cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ công.

Một số giải pháp tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các trường đại học ở Việt Nam

Kinh tế nước ta đang tiếp tục quá trình chuyển sang nền “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”, các cải cách kinh tế đang diễn ra một cách sâu rộng và triệt để hơn nhằm tháo gỡ những cản trở về hành chính còn lại. Điều này cũng tạo ra môi trường thuận lợi, tác động và tăng sức ép đối với cải cách quản lý giáo dục đại học trên các mặt chủ yếu: khoa học, tài chính, tổ chức và nhân sự.

Kinh nghiệm đánh giá công chức của một số quốc gia trên thế giới

Đánh giá công chức là một khâu quan trọng trong công tác quản lý công chức. Đánh giá công chức là chỉ công việc mà các cơ quan nhà nước tiến hành kiểm tra, khảo sát, thẩm định theo định kỳ hoặc không theo định kỳ về hiệu quả, thành tích công tác và tố chất chính trị, kiến thức chuyên môn, năng lực làm việc… của công chức làm cơ sở cho việc khen thưởng và kỉ luật, cất nhắc và điều chỉnh một cách hợp lý, công bằng đối với công chức. Có thể nói, việc đánh giá công chức có tác dụng trên nhiều phương diện đối với công tác quản lý công chức. Ví dụ như Cơ quan Công vụ (Public Service Department- PSD) của Malaysia yêu cầu tất cả các bộ, ngành cũng như các cơ quan chính quyền địa phương phải tổ chức đánh giá tâm lý khi phỏng vấn tuyển chọn nhân viên. Đồng thời, các công chức đang tại chức cũng sẽ phải qua phần đánh giá tâm lý và tư vấn để giúp họ cải thiện khả năng phục vụ. Theo Tổng giám đốc PSD Ismail Adam đây là một biện pháp để phát triển nhân lực. Đánh giá tâm lý sẽ hỗ trợ việc tuyển dụng, bố trí nhân sự do có thể giúp đánh giá khả năng hoàn thành nhiệm vụ căn cứ vào tính cách của mỗi cá nhân. Mặt khác, đánh giá tâm lý còn có thể hỗ trợ các “đầy tớ của nhân dân” điều chỉnh cảm xúc, tính cách, hành vi trong quá trình tác nghiệp. 

Trang chủ    |    Sơ đồ Website    |    Liên hệ    |