1. Cơ sở chính trị - pháp lý của cải cách bộ máy nhà nước mà trọng tâm là cải cách nền hành chính

Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã quyết định đường lối đổi mới đất nước, một quyết định có tính cách mạng từ nhận thức tới hành động trong việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển đổi có ý nghĩa lịch sử, Đảng và nhà nước ta đã vượt lên chính mình, tạo nền tảng cho một thời kì phát triển kinh tế - xã hội đầy sinh động với nhiều thành tựu ngoạn mục đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng nghiêm trọng trước bờ vực của sự sụp đổ để phát triển từ đầu những năm 90 trở lại đây.

Những bài học thất bại, sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã được Đảng và Nhà nước ta nhận thức và điều chỉnh trong tiến trình cải cách kinh tế, đồng thời tiến hành thận trọng đổi mới hệ thống chính trị - cải cách cơ bản bộ máy nhà nước cho phù hợp, trong đó đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã xác định cương lĩnh phát triển đất nước, và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (1991 -2000) – là cơ sở của chủ trương tiếp tục cải cách cơ bản bộ máy nhà nước. Việc ban hành Hiến pháp 1992 – Hiến pháp bắt đầu sự nghiệp đổi mới đã xác định thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước bằng pháp luật là tiền đề cho công cuộc cải cách bộ máy nhà nước – cải cách hành chính nhà nước. Theo Hiến pháp 1992, vị trí, vai trò của Chính phủ đã được xác định rõ từ Hội đồng Bộ trưởng theo Hiến pháp 1980 đã được thay đổi bằng Chính phủ có vai trò là cơ quan hành pháp được đề cao cùng với vai trò là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc ban hành Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992 đã xác định cơ cấu tổ chức Chính phủ.

Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, trong cơ cấu 27 Bộ, cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ được xác định là cơ quan ngang Bộ - từ Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ là cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Nghị định số 181/1994/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước; công chức và viên chức nhà nước; lập hội quần chúng và tổ chức phi Chính phủ; phân vạch định giới hành chính và công tác lưu trữ tài liệu quốc gia cùng với 12 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Lúc này nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước chưa được xác định là một nhiệm vụ của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ. Mãi tới tháng 9 năm 1998, Thủ tướng mới đồng ý cho Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ thành lập Tổ Cải cách hành chính mà sau này nâng lên thành Vụ Cải cách hành chính (năm 2002).

Tại hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa VII (tháng 01/1995) đã ra Nghị quyết tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đưa ra các nguyên tắc cơ bản xây dựng nhà nước. Hội nghị đưa ra phương hướng, nhiệm vụ cấp bách trước mắt là: cải cách thủ tục hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hành chính đáp ứng yêu cầu đổi mới, từng bước hoàn thiện chế độ công vụ và quy chế công chức. Đây là những chủ trương ban đầu rất quan trọng trong việc hình thành chiến lược Cải cách hành chính sau này.

Đại hội VIII (tháng 6/1996) tiếp tục nhấn mạnh: “Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tới hội nghị lần thứ 7 khóa VIII (8/1999) đã xác định nhiệm vụ đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là yêu cầu cấp bách lâu dài của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ưu tiên trọng tâm là cải cách hành chính nhà nước.

Thời kỳ 1992-2001, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ đã tập trung nghiên cứu, đề xuất triển khai nhiều chủ trương và quyết định quan trọng của công cuộc cải cách bộ máy nhà nước theo hướng điều chỉnh chức năng nhà nước từ vi mô sang quản lý nhà nước vĩ mô, làm rõ chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ, Bộ ngành, chính quyền từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp bằng pháp luật, chính sách, kiểm tra kiểm soát; tách chức năng quản lý nhà nước và chức năng dịch vụ công và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại Chính phủ gọn, giảm đầu mối, cắt giảm đáng kể các cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức Bộ đa ngành, đa lĩnh vực… Ban đã soạn thảo các văn bản Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Pháp lệnh Cán bộ - Công chức (1998) và tham gia soạn thảo các văn kiện Đại hội khóa VII, khóa VIII và các Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, Hội nghị Trung ương 3,7 khóa VIII là những văn bản chính trị - pháp lý quan trọng hình thành chiến lược cải cách hành chính nhà nước trong những năm đầu thế kỷ XXI.

2. Vai trò của Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ (Bộ Nội vụ) trong xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và 2011- 2020

- Năm 1999, Ban chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ được thành lập do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Trưởng ban, Phó Trưởng ban là 1 Phó Thủ tướng, nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh và Bộ trưởng Bộ Nội vụ với các thành viên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư và Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ và 1 Phó Ban Tổ chức Trung ương Đảng – với một Ban Thư ký cấp Thủ tướng, Vụ trưởng của một số Bộ, ngành, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Thang Văn Phúc làm Tổng Thư ký (1999-2008).

Bộ Nội vụ được Chính phủ phân công là cơ quan quản lý nhà nước về cải cách hành chính, có nhiệm vụ tham mưu cho Chính phủ về cải cách hành chính, tại Nghị định số 45/2003/NĐ-CP  của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Bộ Nội vụ đã quy định nhiệm vụ thường trực công tác cải cách hành chính của Chính phủ. Việc đổi tên Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ thành Bộ Nội vụ được Quốc hội khóa IX (2002-2007) quyết định trong cơ cấu Chính phủ gồm 26 Bộ, cơ quan ngang Bộ của Chính phủ khóa IX.

- Năm 1999-2000, Bộ Nội vụ đã cùng Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ chỉ đạo Ban thư ký cùng với một số Bộ, ngành, cơ quan khoa học tiến hành nghiên cứu, đánh giá thực trạng nền hành chính Việt Nam trên cơ sở các yêu cầu của các Nghị quyết Đảng về cải cách bộ máy nhà nước mà trọng tâm là cải cách hành chính nhà nước. Thời gian này, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính và Ban Thư ký đã tiến hành một công việc to lớn, hệ trọng chưa từng có trong lịch sử xây dựng bộ máy nhà nước ta: Cùng với lãnh đạo từng Bộ, ngành Trung ương (lúc đó có 26 Bộ, nghành) và lãnh đạo thường vụ tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân của 64 tỉnh, thành phố tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước, cơ cấu tổ chức và biên chế cán bộ, công chức, viên chức của từng bộ, ngành, tỉnh, thành phố. Trên cơ sở đó, Ban Thư ký đã biên tập, khái quát kết quả trong một cuốn sách được xuất bản năm 2001 với tên gọi: “Cải cách hành chính nhà nước – thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành – đã là cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hình thành bản Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 trình Chính phủ ban hành trong Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 do Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải phê duyệt.

Đây là một văn bản pháp lý có ý nghĩa chiến lược cải cách hành chính của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một quyết định phù hợp với tiến trình đổi mới, cải cách có tính thời đại, giúp cho quốc tế có cái nhìn đúng đắn, tích cực và là thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong chuyển đổi và hội nhập quốc tế.

- Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010 đã xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, nội dung cải cách và một hệ thống giải pháp thực hiện đầy tính thuyết phục:

+ Với mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Với 4 nội dung cơ bản của cải cách hành chính là: 1) Cải cách thể chế trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước, tiếp tục cải cách đơn giản hóa thủ tục hành chính được bắt đầu từ năm 1995 (Nghị quyết số 38/1995/NQ-CP); 2) Cải cách tổ chức bộ máy hành chính theo hướng gọn nhẹ trên cơ sở điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, Bộ, ngành, chính quyền địa phương, đẩy mạnh phân cấp Trung ương - địa phương, đổi mới phương thức quản lý và từng bước hiện đại hóa nền hành chính; 3) Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, xây dựng chế độ công vụ mới …; 4) Cải cách tài chính công, đổi mới hệ thống tài chính ngân sách, xóa bỏ cấp phát tài chính theo kiểu “xin-cho”, phân biệt rõ cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, thực hiện chủ trương xã hội hóa các tổ chức dịch vụ công theo cơ chế tài chính mới tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Bốn nội dung cải cách cơ bản nền hành chính là những nội dung đổi mới, cải cách theo hướng xây dựng nền hành chính hiện đại của khu vực và thế giới, đã tạo ra mô hình hành chính mới chuyển từ hành chính quản lý – “cai trị” sang hành chính phục vụ, là hướng đi đúng đắn, phù hợp cùa công cuộc cải cách, hội nhập quốc tế.

- Trong Chương trình tổng thể đã xác định hệ thống giải pháp với 7 chương trình hành động cụ thể đã làm cho nền hành chính Việt Nam có những thay đổi lớn:

+ Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật với sự tham gia của người dân đã góp phần nâng cao chất lượng thể chế.

+ Chương trình nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước.

+ Chương trình tinh giản biên chế.

+ Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

+ Chương trình cải cách tiền lương.

+ Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công theo hướng khoán chi trong cơ quan hành chính và cơ chế tự chủ, tự quản tài chính đối với các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công.

+ Chương trình hiện đại hóa nền hành chính từ hiện đại hóa công sở, xây dựng Chính phủ và chính quyền điện tử.

Trong 7 chương trình hành động trên, Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm chủ trì 4 chương trình và đã triển khai thực hiện một khối lượng công việc to lớn, từng bước hình thành mô hình hành chính mới theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại tương thích với các chuẩn mực của các nền hành chính phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Khi tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Chương trình tổng thể giai đoạn 2001-2010, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, Bộ Nội vụ đã đánh giá cao những kết quả đạt được và chỉ ra những khó khăn, thách thức của quá trình thực hiện, chuẩn bị xây dựng Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn tiếp theo 2011-2020 trình Chính phủ phê duyệt trong Nghị quyết 30c/2011/NQ-CP. Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020, tiếp tục thực hiện mục tiêu của cải cách theo hướng xây dựng nền hành chính hiệu lực - hiệu quả, chuyên nghiệp, hiện đại, một nền hành chính phục vụ nhân dân, phục vụ phát triển đất nước nhanh, bền vững. Với nhiệm vụ được Chính phủ giao tiếp tục là cơ quan thường trực của cải cách hành chính, Bộ Nội vụ chủ trì xây dựng chế độ công chức – công vụ mới theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, một chế độ công vụ theo vị trí việc làm từng bước thay cho chế độ công vụ chức nghiệp trước đây – để có một đội ngũ cán bộ - công chức tinh hoa, tài năng, trách nhiệm đáp ứng yêu cầu quản trị mới hiệu quả, hiện đại.

Đây là một quá trình cải cách, chuyển đổi lâu dài, đòi hỏi Bộ Nội vụ, Chính phủ tiếp tục thực hiện kiên quyết, nhất quán để 20 năm nữa vào 2035, nền công vụ, hành chính Việt Nam đạt được trình độ phát triển của khu vực và thế giới; làm cơ sở cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

TS. Thang Văn Phúc

Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ,

Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học tổ chức nhà nước