Sau Cách mạng tháng Tám thành công (8/1945), Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Nhà nước ta đã xây dựng văn bản pháp luật về công chức; xây dựng chế độ công chức và nền công vụ mới.

Đó là Sắc lệnh số 188/SL do Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ban hành ngày 09/5/1948 lập chế độ công chức mới, sửa đổi lại chế độ công chức đương thời với mục đích là cải thiện đời sống công chức và đơn giản hóa chế độ công chức.
Đặc biệt, với việc ban hành Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành “Quy chế Công chức Việt Nam” gồm 7 chương, 92 điều chỉnh toàn bộ những nội dung về công chức, công vụ nhà nước, hệ thống công vụ Việt Nam đã có bước phát triển mới, phù hợp với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, với yêu cầu quản lý nhà nước và sự phát triển của bộ máy tổ chức nhà nước; tiếp cận với nền công vụ hiện đại (hệ thống công vụ việc làm). Tuy nhiên, do tình hình cả nước phải tập trung vào công cuộc kháng chiến nên nhiều nội dung của chế độ công vụ đã không được xây dựng và thực hiện một cách đầy đủ và triệt để.
Sau hòa bình lập lại, năm 1954 Nhà nước ta áp dụng chế độ cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Sau ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, chế độ cán bộ được áp dụng trong phạm vi cả nước. Tất cả những người được tuyển dụng, biên chế vào làm việc tại các cơ quan nhà nước, trường học, bệnh viện, nhà máy, công nông trường đều gọi là cán bộ công nhân viên nhà nước.
Ngày 25/5/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 169/HĐBT về công chức nhà nước. Đây là bước khởi đầu cho việc xây dựng văn bản pháp luật về công vụ, công chức của Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, quy định hai nội dung cơ bản về công chức mà suốt thời gian dài bị bỏ quên đó là định nghĩa về công chức và quy định các đối tượng là công chức.
Khái niệm công chức nhà nước được xác định là: Công dân Việt Nam, được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay nước ngoài, đã được xếp vào một ngạch hưởng lương do ngân sách nhà nước (ở đây khái niệm ngạch được sử dụng chỉ ngành – Ví dụ: Ngạch Hành chính - Chuyên viên… , ngạch Thanh tra – Thanh tra viên...).
Từ năm 1992, công việc xây dựng Đề án Pháp lệnh cán bộ, công chức được tiến hành; sau hơn 5 năm soạn thảo, chỉnh lý, bổ sung nhiều lần theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, ngày 26/02/1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa X đã thông qua Pháp lệnh cán bộ, công chức. Ngày 09/03/1998, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh cán bộ, công chức có hiệu lực.
Như vậy, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 188/SL lập chế độ công chức; Sắc lệnh 76/SL ban hành quy chế công chức Việt Nam, hơn 50 năm sau, một văn bản về cán bộ, công chức được ra đời, tiếp tục thực hiện đường hướng về xây dựng, quản lý công chức do lãnh tụ Hồ chí Minh đã chỉ ra.
Mặc dù có những bước thay đổi và phát triển so với các quy định hiện hành, nhưng trong Pháp lệnh cũng còn nhiều hạn chế: Nhiều đối tượng có tính chất hoạt động khác khau cùng điều chỉnh trong một Pháp lệnh, chưa làm rõ phân tách những đối tượng có tính hoạt động khác nhau như những người hoạt động trong bộ máy công quyền (công chức) với người hoạt động trong các đơn vị sự nghiệp công: Bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu…. (viên chức) hay còn một số quy định trong Pháp lệnh chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống như: Quy định tuổi tuyển dụng lần đầu đối với công chức… nam được nhiều hơn nữ 5 tuổi (nữ 40, nam 45) - điều này đã được chỉnh sửa năm 1998.
Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 đã tách riêng đối tượng công chức, viên chức và quy định về chế độ công chức dự bị. Công chức là những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước; viên chức đảm nhận những công việc chuyên môn và làm việc trong các đơn vị sự nghiệp. Công chức cơ sở cũng được đưa vào trong phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh. Chính phủ cũng ban hành một loạt các nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh.
Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 đã sử dụng lại khái niệm viên chức – tạo điều kiện xây dựng chính sách điều chỉnh cho đối tượng này phù hợp thuận tiện hơn. Pháp lệnh cũng đưa ra một khái niệm mới là công chức dự bị nhưng không xác định rõ nội hàm, mục tiêu của đối tượng này. Vì thế sau một năm thực hiện đã không đi vào cuộc sống và tự bị lãng quên mà không có văn bản nào tuyên bố chấm dứt. Pháp lệnh cũng đưa vào phạm vi điều chỉnh “công chức cơ sở” – Đối tượng này cho đến nay chưa được tổng kết đánh giá để có hướng thiết kế cấu trúc cho nội dung những văn bản luật tiếp theo sao cho phù hợp hiệu quả và thuyết phục.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 là bước phát triển mới (1998 – 2008) với cấp độ cao hơn, đánh giá bước phát triển quan trọng của công vụ Việt Nam trong giai đoạn mới, khi mà nền hành chính của nước ta tiến tới một nền hành chính phát triển – đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tăng lên tương ứng với một quốc gia có dân số gần 100 triệu người, đất nước đã chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…
Với vai trò là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, Bộ Nội vụ đã tích cực, chủ động phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh việc triển khai Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ nhằm xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch và hiệu quả. Trong đó, xác định vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, viên chức - là nội dung mới và khó – đã được tập trung hướng dẫn, tập huấn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện, làm cơ sở cho công tác xác định biên chế, tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng và quản lý công chức, viên chức. Đề án “Thí điểm đổi mới phương thức tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng” đã được thông qua và đang tổ chức thực hiện thí điểm trên toàn quốc.
Hệ thống thể chế quản lý công chức, viên chức cơ bản đã được hoàn thiện. Bộ Nội vụ đã xây dựng, tham mưu trình Quốc hội khóa XII thông qua Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. Các Nghị định và Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức đã được ban hành đầy đủ. Một số nhiệm vụ mới được giao cũng đang được tập trung khẩn trương thực hiện như xây dựng, trình ban hành Nghị định về chế độ chính sách đối với cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội; Nghị định hướng dẫn thi hành khoản 3 Điều 187 Luật Lao động quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn. Đã tập trung hoàn thiện, ban hành Thông tư về chức danh, mã số và tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn các ngạch công chức chuyên ngành hành chính; đồng thời, đôn đốc, phối hợp với các bộ, ngành liên quan ban hành các Thông tư liên tịch quy định tiêu chuẩn chức danh ngạch công chức chuyên ngành, chức danh nghề nghiệp của viên chức.
Để nâng cao chất lượng và thực hiện nghiêm nguyên tắc khách quan, công bằng, Bộ Nội vụ đã chủ trì thực hiện việc thi nâng ngạch công chức theo nguyên tắc cạnh tranh; với nhiều đổi mới về cách ra đề, nội dung đánh giá, chú trọng kiểm tra năng lực, kỹ năng của công chức, có nhiều biện pháp phòng chống tiêu cực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thi tuyển công chức từng bước được thực hiện, được dư luận xã hội ủng hộ và đánh giá cao. Bộ Nội vụ là Bộ đầu tiên áp dụng thi tuyển công chức qua máy tính. Bộ Nội vụ đang phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm để phục vụ cho việc tổ chức thi trên máy tính, tạo điều kiện nhân rộng mô hình.
Mặc dù vậy, chất lượng cán bộ, công chức, viên chức còn bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp; một bộ phận không nhỏ sa sút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước yêu cầu chính đáng của người dân. Công tác quản lý quy hoạch, bổ nhiệm, tổ chức, giao nhiệm vụ, đánh giá, thanh tra, kiểm tra thiếu đổi mới, không tạo ra động lực phát triển cho bản thân đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Bộ máy không thu hút và giữ được người tài, chưa khắc phục được tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nhân lực. Thực tế vẫn đặt ra những câu hỏi sau: Chúng ta chuyển từ chế độ (hệ thống) công vụ chức nghiệp sang chế độ (hệ thống) công vụ việc làm trong khi một số nội dung cần tiếp tục làm rõ – cả về khái niệm, bước đi và hướng dẫn. Ranh giới giữa công chức và viên chức cần tiếp tục nghiên cứu, phân định – mục đích của việc phân biệt này cũng cần thể hiện rõ hơn – chẳng hạn như, vì sao các đơn vị sự nghiệp công lập lại có công chức, hay viên chức được đề bạt vào chức vụ lãnh đạo lại trở thành công chức,… Chế độ công vụ vẫn quy định công chức còn phải học nhiều chương trình, phải trải qua nhiều kỳ thi - có thể làm cho công chức căng thẳng và bận rộn chăng? Sau một thời gian thực hiện hai Luật, cần đánh giá và có sự điều chỉnh cần thiết, đặc biệt những văn bản hướng dẫn thực hiện để hoàn thiện thể chế công vụ ngày một tốt hơn, đáp ứng yêu cầu nền hành chính phát triển.
Thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức. Đặc biệt chú trọng triển khai thực hiện tốt cơ chế, chính sách thu hút nhân tài, bắt đầu từ việc tuyển dụng, thi tuyển vào các chức danh lãnh đạo, quản lý đến việc sử dụng, đánh giá và đãi ngộ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng kỷ luật công vụ, nâng lời hứa và cam kết thực hiện các nhiệm vụ hành chính trở thành những ràng buộc về mặt đạo đức nghề nghiệp. Chú trọng tới giá trị nghề nghiệp, khuyến khích công chức trở thành chuyên gia chứ không chạy theo chức tước; coi trọng thực tài; xóa bỏ tình trạng chạy theo bằng cấp một cách hình thức; không cứng nhắc về tuổi để tránh lãng phí nguồn nhân lực trong quản lý, đồng thời khắc phục tình trạng thiếu hụt cán bộ lãnh đạo, quản lý kế cận ở các cấp, các ngành. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở thực hiện kế hoạch tiêu chuẩn hóa, chuyên môn hóa các quy trình hành chính. Đẩy nhanh tiến độ cải cách tiền lương để bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng lương theo mức trung bình của xã hội.
Cần tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan trong việc rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, viên chức; hệ thống vị trí việc làm, tiêu chuẩn, chức danh ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức và chức danh lãnh đạo, quản lý. Nghiên cứu đổi mới quy trình, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công tác thi tuyển công chức, viên chức đảm bảo khách quan, công khai, minh bạch, chất lượng trong công tác tuyển dụng.
Cần tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức; bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và trong hoạt động công vụ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật và thực hiện đồng bộ các giải pháp về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực; xây dựng cơ chế phòng ngừa hiệu quả; thực hiện công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình thực thi công vụ, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu./.
PGS. TS. Nguyễn Trọng Điều - Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ,
Nguyên Giám đốc Học viện hành chính quốc gia