TS. Nguyễn Huyền Hạnh – Phó Viện trưởng

Viện Khoa học Tổ chức nhà nước và Lao động

Thuật ngữ quản trị quốc gia được tiếp cận tại các quốc gia phát triển từ những năm 80 của thế kỷ XX, khi bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế buộc các quốc gia phải đổi mới, cải cách để phát triển. Khi đó các nguyên tắc, mục tiêu, yêu cầu chuẩn mực về quản trị quốc gia được đề ra nhằm nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và huy động sự tham gia của công dân, tổ chức. Sự chuyển dịch từ khái niệm “quản lý nhà nước” sang “quản trị quốc gia” đã phản ánh sự thay đổi sâu sắc trong tư duy và cách tiếp cận vai trò của Nhà nước trong xã hội. Có thể hiểu khái quát, quản trị quốc gia là quá trình nhà nước và các chủ thể ngoài Nhà nước cùng tham gia quyết định và thực hiện các quyết sách, mục tiêu để giải quyết các vấn đề của quốc gia hiệu quả.

Ở Việt Nam, tinh thần cải cách, đổi mới quản trị quốc gia đã được thể hiện rõ khi lần đầu tiên Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả” được xác định khâu đột phá đầu tiên trong 3 đột phá chiến lược đưa vào nghị quyết để triển khai thực hiện Đại hội XIII. Tiếp đến, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, nội dung “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội” tiếp tục được khẳng định là giải pháp đột phá phải tập trung ưu tiên thực hiện để cụ thể hóa, hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả không phải là mô hình nhà nước mới, mà là tập hợp các phương thức, nguyên tắc, quan điểm định hướng để tìm ra giải pháp, cách thức tổ chức thực hiện cho được mục tiêu đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Các nguyên tắc, chuẩn mực phổ quát của quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả được nêu ra gồm:

(1) Tính pháp quyền;

(2) Huy động sự tham gia của các chủ thể trong xã hội;

(3) Đồng thuận xã hội khi ban hành các quyết sách liên quan tới người dân, xã hội và vận mệnh của quốc gia;

(4) Công khai, minh bạch trong hoạt động của khu vực công;

(5) Trách nhiệm giải trình của các chủ thể trong quản trị quốc gia;

(6) Hiệu lực, hiệu quả trong thực thi chính sách, pháp luật;

(7) Hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan;

(8) Năng lực của nhà nước trong giải quyết các vấn đề toàn cầu;

(9) Tầm nhìn và sự thích ứng với sự biến đổi của môi trường;

(10) Bảo đảm quyền con người và quyền công dân.

Trong công cuộc đổi mới quản trị quốc gia, đội ngũ công chức, viên chức với trách nhiệm xây dựng, hoạch định và tổ chức thực thi chính sách, cung cấp dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp... luôn giữ vai trò rất quan trọng. Năng lực, kỹ năng, phẩm chất đạo đức và động lực làm việc của họ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, cũng như mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp. Nếu không có đội ngũ công chức, viên chức năng lực, động lực và liêm chính, những chính sách đổi mới, cải cách dù hoàn hảo đến đâu cũng sẽ rất khó thực hiện thành công. Do đó, việc chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức là một điều kiện tiên quyết cho sự thành công của toàn bộ công cuộc cải cách hành chính và đổi mới quản trị quốc gia ở Việt Nam hiện nay.

Để phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả - khi Nhà nước được kỳ vọng trở thành một chủ thể kiến tạo, điều phối và hợp tác với nhiều chủ thể khác trong xã hội - đội ngũ công chức, viên chức ngoài yêu cầu phải đáp ứng được về trình độ, năng lực, còn phải có khả năng hợp tác, đổi mới và phản ứng linh hoạt trước các nhu cầu đa dạng của xã hội. Đội ngũ công chức, viên chức cần phải chuyển mình từ những người quản lý, kiểm soát sang những người tạo điều kiện, điều phối và thúc đẩy sự phát triển; không chỉ xây dựng, thực thi chính sách mà còn phải là những người có tư duy chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, biết tìm kiếm giải pháp và thúc đẩy đổi mới.

Để xây dựng, phát triển đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp, hiện đại, có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ, công vụ, công tác quản lý đội ngũ công chức, viên chức phải luôn bám sát, thể hiện các nguyên tắc, giá trị phổ quát của quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, đó là: 

- Tuân thủ và đảm bảo tính pháp quyền: các nội dung quản lý đội ngũ công chức, viên chức như địa vị pháp lý, các nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền của công chức, viên chức phải được pháp luật quy định rõ ràng, cụ thể, được bảo đảm thực hiện, tuân thủ trong thực tế, đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước và xã hội. Các hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến đánh giá, tôn vinh và giải quyết chế độ đãi ngộ… đối với các công chức, viên chức luôn đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, không tùy tiện, chủ quan. Đồng thời, cần chú trọng xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có ý thức pháp luật cao, thực thi nhiệm vụ, công vụ trong khuôn khổ pháp luật, không lạm quyền, lạm chức xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức.

- Đảm bảo công khai, minh bạch: chế độ quản lý đội ngũ công chức, viên chức, các thông tin quản lý liên quan phải được công khai, minh bạch, rõ ràng; đặc biệt là các hoạt động liên quan đến chế độ, chính sách, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ vật chất, tinh thần... Sự công khai, minh bạch tạo ra một môi trường làm việc lành mạnh và cạnh tranh. Khi các quy trình như tuyển dụng, bổ nhiệm, đánh giá và khen thưởng đều được thực hiện rõ ràng, công bằng, công chức, viên chức sẽ có động lực để nâng cao năng lực và cống hiến.

- Đảm bảo trách nhiệm giải trình: đây là một nội dung yêu cầu rất quan trọng nhằm đảm bảo cho các quyết định liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức của những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị được công khai, rõ ràng, rõ trách nhiệm, khách quan. Khi công chức, viên chức hiểu rằng họ phải chịu trách nhiệm về các quyết định và hành động của mình, họ sẽ cẩn trọng hơn, làm việc hiệu quả hơn và chủ động tìm kiếm giải pháp tốt nhất. Trách nhiệm giải trình thúc đẩy sự tận tâm và tinh thần trách nhiệm cá nhân, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm.

- Đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong xây dựng, thực thi chính sách quản lý đội ngũ công chức, viên chức: công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức phải hướng tới xây dựng được một đội ngũ có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực để thực thi công vụ, nhiệm vụ một cách hiệu lực, hiệu quả. Trong bối cảnh đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số hiện nay, để nâng cao năng suất, hiệu quả rất cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác quản lý. 

- Huy động sự tham gia của các chủ thể trong xã hội đối với công tác xây dựng, phát triển đội ngũ công chức, viên chức. Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ công chức, viên chức cũng như sự ảnh hưởng lớn của số lượng, chất lượng đội ngũ này đối với các hoạt động quản lý đời sống kinh tế, xã hội… nên công tác quản lý cán bộ từ khâu xây dựng thể chế, chính sách đến tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát không phải chỉ là công việc riêng của cơ quan, đơn vị quản lý công chức, viên chức mà cần phải thu hút sự tham gia rộng rãi, thực chất của người dân và xã hội đối với một hoạt động của quản lý cán bộ, công chức, viên chức. Người dân và xã hội là những thực thể trực tiếp cảm nhận và đánh giá chất lượng phục vụ của công chức, viên chức. Việc đánh giá công chức, viên chức không chỉ dựa vào kết quả thực hiện công việc mà còn phải dựa trên mức độ hài lòng của người dân. Sự tham gia của người dân và xã hội thông qua các hình thức như lấy ý kiến, góp ý trực tiếp giúp cho việc đánh giá trở nên khách quan, toàn diện hơn, phản ánh đúng thực chất chất lượng phục vụ của công chức, viên chức.

- Bảo đảm quyền con người, quyền công dân: Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức phải nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đây không chỉ là một yêu cầu pháp lý mà còn là một đòi hỏi khách quan, mang tính sống còn đối với sự phát triển bền vững của đất nước, đảm bảo Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân.  Điều đó đặt ra yêu cầu đối với pháp luật về quản lý công chức, viên chức phải bảo đảm đầy đủ quyền con người, quyền công dân, đồng thời không được có các điều khoản tiềm ẩn hoặc tạo kẽ hở cho các hành vi của công chức, viên chức xâm phạm quyền con người, quyền công dân. Tôn trọng quyền con người, quyền công dân phải trở thành một tiêu chí để đánh giá hoạt động của cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức, viên chức. Việc tôn trọng và đảm bảo quyền con người, quyền công dân giúp công chức xây dựng thái độ làm việc tận tâm, tận tụy, gần gũi, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân, tạo niềm tin và sự đồng thuận trong xã hội.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ chế độ công vụ, công chức nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức đã được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung; tích cực phối hợp các cơ quan liên quan tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách thu hút và trọng dụng người có tài năng vào làm việc trong cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, tiêu chuẩn nghiệp vụ, tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên chức dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, bằng sản phẩm cụ thể; sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật, đánh giá, xếp loại bảo đảm phù hợp với yêu cầu đổi mới, cải cách công vụ. Đổi mới và phân cấp triệt để trong tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức; bỏ quy định thi thăng hạng, chỉ quy định về xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức; cải cách thủ tục, quy trình tuyển dụng; tăng cường ứng dụng công nghệ trong tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng; tăng cường tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thực thi công vụ, xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có sai phạm, vi phạm pháp luật; đồng thời, thực hiện các biện pháp nhằm đẩy lùi tình trạng đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của công chức, viên chức.

Năm 2024, các bộ, ngành và địa phương đã tuyển dụng được 39.281 CCVC (có 3.879 công chức; 35.402 viên chức). Trong đó bộ, ngành tuyển dụng 3.740 CCVC (561 công chức; 3.179 viên chức); các địa phương tuyển dụng 35.541 CCVC (3.318 công chức; 32.223 viên chức), tuyển dụng theo Nghị định số 140/2017/NĐ-CP được 230 người (trong đó 170 sinh viên xuất sắc, 60 cán bộ khoa học trẻ).

Thực hiện nghiêm các quy định về đánh giá, xếp loại chất lượng công chức, viên chức; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyển dụng và quản lý gắn với siết chặt kỷ cương hành chính, kỷ luật công vụ; tăng cường thanh tra công vụ, công chức tại các bộ, ngành, địa phương, kịp thời chấn chỉnh những sai phạm, khuyết điểm trong công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức nhất là công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại. Theo đó, năm 2024 các bộ, ngành, địa phương đã xử lý kỷ luật 1.092 công chức, 3.259 viên chức.[1]

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ vẫn là một nhiệm vụ cấp bách. Vẫn còn những khoảng trống về chất lượng, tính chuyên nghiệp, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu công việc, đặc biệt là ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong thực thi nhiệm vụ, ảnh hưởng đến mong muốn xây dựng một nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, tạo ra rào cản cho quá trình hiện đại hóa. Tình trạng công chức, viên chức nghỉ việc có xu hướng gia tăng, đặc biệt trong các ngành y tế và giáo dục. Việc xây dựng đội ngũ công chức theo vị trí việc làm là một chủ trương lớn, tuy nhiên trong quá trình triển khai vẫn bộc lộ một số hạn chế và khó khăn, như việc mô tả công việc, xây dựng khung năng lực cho từng vị trí rất phức tạp, việc xác định vị trí việc làm đôi khi còn mang tính chủ quan, chưa thực sự dựa trên khối lượng công việc thực tế, dẫn đến tình trạng mô tả vị trí việc làm chưa sát với thực tế, hoặc xây dựng vị trí việc làm chỉ để hợp thức hóa biên chế hiện có. Việc đánh giá công chức gắn với vị trí việc làm và kết quả công việc chưa thực sự chặt chẽ, tiêu chí đánh giá vẫn còn mang tính định tính, chưa xây dựng được hệ thống chỉ số đo lường hiệu quả công việc cụ thể, khoa học cho từng vị trí. Tiền lương chưa thực sự gắn với vị trí việc làm, chưa thực sự tương xứng với tính chất phức tạp và trách nhiệm của từng vị trí, chưa tạo được sự khác biệt đủ lớn giữa các vị trí có mức độ công việc khác nhau…

Hiện nay, Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi) năm 2025 đã được Quốc hội thông qua vào ngày 24/6/2025 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025 thể hiện tư duy đổi mới, tạo hành lang pháp lý quản lý công chức theo hướng năng động, minh bạch, hiệu quả. Cùng với Luật, Chính phủ cũng đã ban hành 04 Nghị định hướng dẫn có hiệu lực từ ngày 01/7/2025, bao gồm: Nghị định số 170/2025/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; Nghị định số 171/2025/NĐ-CP quy định về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Nghị định số 172/2025/NĐ-CP quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức; Nghị định số 173/2025/NĐ-CP về hợp đồng thực hiện nhiệm vụ công chức... Việc ban hành đồng thời Luật mới và 04 Nghị định hướng dẫn nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý toàn diện cho cải cách công vụ, tạo điều kiện chuyển đổi nhanh hơn sang mô hình quản lý mới. Điểm nổi bật nhất của Luật Cán bộ, công chức năm 2025 là việc đổi mới phương thức quản lý công chức theo vị trí việc làm, lấy vị trí việc làm làm trung tâm. Sự chuyển đổi này là yếu tố then chốt để thúc đẩy chế độ công vụ dựa trên thành tích và trả lương theo hiệu suất. Mô hình vị trí việc làm liên kết việc trả lương, tuyển dụng, đào tạo và đánh giá trực tiếp với các nhiệm vụ và năng lực cần thiết cho một vị trí công việc. Sự thay đổi này rất quan trọng để nâng cao hiệu quả, trách nhiệm giải trình và thu hút được nhân tài, cung cấp cơ sở rõ ràng hơn cho sự thăng tiến dựa trên thành tích và đánh giá hiệu suất.

Như vậy có thể thấy rằng việc đổi mới chế độ công vụ, công chức tại Việt Nam đã được xác định là một nhiệm vụ chiến lược và đang có những bước tiến quan trọng về mặt chính sách. Việc chuyển đổi từ quản lý theo ngạch sang vị trí việc làm đã được từng bước thể chế hóa. Đặc biệt trong thời gian tới, việc chuyển đổi từ đánh giá định tính sang KPI, và từ lương theo hệ số sang lương theo hiệu suất là những bước đi phù hợp với các nguyên tắc cốt lõi của quản trị quốc gia hiện đại như tính chuyên nghiệp, hiệu quả và trách nhiệm giải trình.

Trong thời gian tới, để tiếp tục đổi mới chế độ công vụ, công chức phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chính như sau:

Một là, xây dựng hệ thống pháp luật về công vụ, công chức thực sự đồng bộ, minh bạch. Rà soát, sửa đổi và bổ sung các luật, nghị định, thông tư liên quan đến công vụ, công chức để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ. Tăng tốc hoàn thiện các văn bản pháp luật, đặc biệt là quy định về vị trí việc làm và chính sách tiền lương mới, đảm bảo tính liên kết và đồng bộ của các nội dung cải cách. Đề cao tinh thần pháp quyền, hoạt động thực thi công vụ, nhiệm vụ của đội ngũ công chức, viên chức phải tuân thủ các nguyên tắc cốt lõi là đúng pháp luật, đúng quyền hạn, bổn phận được trao. 

Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức thông qua các giải pháp như: Tuyển dụng dựa trên năng lực, áp dụng các phương pháp tuyển dụng hiện đại, đánh giá khách quan năng lực, phẩm chất của ứng viên; Đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuyên sâu, gắn với vị trí việc làm và nhu cầu thực tế. Tăng cường giáo dục đạo đức, văn hóa công vụ, ý thức tổ chức kỷ luật và phòng chống tham nhũng, lãng phí. Tập trung xây dựng đội ngũ công chức tham mưu xây dựng thể chế, chính sách ở các bộ, ngành, có năng lực chuyên môn cao, có tầm nhìn và khả năng dự báo, nắm bắt nhanh cơ hội và thách thức trong một môi truờng có nhiều thay đổi. Có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những công chức, viên chức không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với cơ quan, tổ chức và nhân dân.

Ba là, áp dụng phương pháp quản lý thực thi công vụ theo kết quả, quản lý công chức tập trung vào kết quả đầu ra, kết quả cuối cùng của hoạt động công vụ. Kết quả đánh giá cần được gắn trực tiếp với các chính sách khen thưởng (tăng lương, thưởng, xem xét đề bạt chức vụ) và xử phạt (phê bình, cảnh cáo) để tạo động lực và thúc đẩy sự cố gắng. Đánh giá đúng hiệu quả công việc, xây dựng hệ thống đánh giá công bằng, minh bạch, dựa trên kết quả đầu ra và sự đóng góp của từng cá nhân.

Bốn là, Cải cách chính sách tiền lương và đãi ngộ, thiết kế chính sách tiền lương dựa trên vị trí việc làm và năng lực thực tế, không dựa vào thâm niên; Thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ hợp lý để thu hút và giữ chân người tài trong cơ quan nhà nước; chính sách tiền lương mới cần phải thực sự đủ sức cạnh tranh với khu vực tư nhân để thu hút và giữ chân nhân tài. Đây là yếu tố then chốt để giải quyết vấn đề "chảy máu chất xám" và giảm thiểu tệ nạn tham nhũng. Đồng thời xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới.

Năm là, tăng cường trách nhiệm giải trình, nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân của mỗi công chức, viên chức và trách nhiệm người đứng đầu, người lãnh đạo, quản lý trong cơ quan, tổ chức. Đảm bảo sự tham gia của người dân thông qua đảm bảo công khai, minh bạch thông tin, bao gồm công khai quy trình, thủ tục hành chính, kết quả giải quyết công việc để người dân dễ dàng giám sát. Tạo cơ chế để người dân và doanh nghiệp tham gia góp ý, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.

Sáu là, hiện đại hóa công tác quản lý công chức, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa quy trình quản lý, hồ sơ công chức, ứng dụng các phần mềm quản lý nhân sự chuyên nghiệp. Tăng cường chuyển đổi số trong quản lý công chức và hoạt động hành chính sẽ giúp nâng cao tính minh bạch, hiệu quả, và khả năng giám sát, đồng thời tạo điều kiện cho công chức, viên chức làm việc linh hoạt, năng động hơn.

Như vậy, việc xây dựng đội ngũ công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu của đổi mới quản trị quốc gia sẽ góp phần xây dựng một nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của công cuộc cải cách không nằm ở việc thiếu các chủ trương, chính sách mà ở "lỗ hổng thực thi", các thay đổi chính sách lớn có thể không tạo ra sự chuyển biến thực tế nếu thiếu ý chí chính trị và năng lực để vượt qua những lực cản nội tại. Quá trình cải cách, đổi mới luôn là một chặng đường dài, đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực, sự đồng lòng, quyết tâm của toàn hệ thống chính trị và đặc biệt là sự ủng hộ của người dân mới có thể đạt được thành công./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài: “Bối cảnh mới của đất nước và yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả”, thuộc Chương trình nghiên cứu trong điểm cấp bộ của Bộ Nội vụ (2021-2025), do PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến làm chủ nhiệm.

2. Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài “Chế độ công chức, công vụ - Những vấn đề lý luận cơ bản” (2022), do TS. Nguyễn Huyền Hạnh làm chủ nhiệm.

 

[1] Báo cáo số 8584/BC-BNV ngày 30/12/2024 về kết quả công tác năm 2024 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2025 của ngành Nội vụ