Nghiên cứu phát triển đội ngũ công chức hành chính các tỉnh đồng bằng Nam Bộ
Chủ nhiệm:
Từ Quyết Chiến
Năm đăng ký:
1999
Năm nghiệm thu:
2000
Tóm tắt:
Nghiên cứu phát triển đội ngũ công chức hành chính các tỉnh đồng bằng Nam Bộ
Chủ nhiệm đề tài: Từ Quyết Chiến
Năm đăng ký: 1999
Năm nghiệm thu: 2000
Xếp loại: Tốt
Mục tiêu của đề tài:
Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính các tỉnh đồng bằng Nam Bộ. Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển đội ngũ cán bộ, công chức các tỉnh đồng bằng Nam Bộ phục vụ yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2005 và các năm tiếp theo.
Kết cấu của đề tài: gồm 4 phần
Phần I: Lịch sử vùng đất và con người đồng bằng Nam Bộ.
Phần II: Khát quát về vị trí chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Phần III: Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ - công chức của vùng.
Phần IV: Những kiến nghị về mục tiêu, giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ, công chức các tỉnh đồng bằng Nam Bộ phục vụ yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hoá đến năm 2005 và các năm tiếp theo.
Những nội dung chính của đề tài:
Ở phần I và phần II, đề tài đã đề cập đến lịch sử vùng đất và con người đồng bằng Nam Bộ, đó là quá trình hình thành vùng đất và địa giới hành chính qua từng giai đoạn lịch sử, cụ thể là đặc trưng của con người vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhóm nghiên cứu phác hoạ một cách khái quát nhất về lịch sử, địa lý, con người cũng như về vị trí chính trị, kinh tế, văn hoá hóa xã hội của từng tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Đấy cũng chính là các yếu tố có ảnh hưởng đến thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như kế hoạch xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức của vùng đồng bằng Nam Bộ.
Phần III, đề tài đi sâu phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức đồng bằng Nam Bộ. Bằng phương pháp phân tích, khoa học qua các số liệu cụ thể để đưa ra các kết luận có cơ sở khoa học tin cậy như: “Tỷ lệ biên chế bình quân phục vụ cho 100 người thì đồng bằng sông Cửu Long thấp hơn bình quân của cả nước 0,23% và thấp hơn đồng bằng sông Hồng 0,17%. Để đảm bảo tỷ lệ này ngang nhau trong cả nước thì nhà nước cần phải phân bổ thêm cho 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tổng số khoảng 40.000 người”, hay “mật độ biên chế hành chính sự nghiệp có mặt trên mỗi km2 cũng có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng phục vụ nhân dân theo địa bàn dân cư với tinh thần “hành chính sự nghiệp đến với dân”. Việc phân tích cơ cấu phân bố theo ngành, đề tài đã chỉ ra: “tỷ lệ biên chế quản lý nhà nước của đồng bằng sông Cửu Long có phần nhỉnh hơn tỷ lệ bình quân tương ứng của cả nước khoảng 0,5%” trái lại “tỷ lệ biên chế bố trí vào sự nghiệp giáo dục lại thấp hơn tỷ lệ bình quân tương ứng của cả nước khoảng 0,35%”, “riêng lực lượng biên chế bố trí vào sự nghiệp nghiên cứu khoa học hầu như còn quá mỏng”.
Việc phân tích, so sánh chất lượng công chức phân theo ngạch, nhóm nghiên cứu đề tài cho thấy “tỷ lệ chuyên viên cao cấp trong biên chế hành chính đồng bằng sông Cửu Long chỉ bằng 1/2 so với bình quân cả nước; tỷ lệ chuyên viên chính cũng thấp, bằng 61% bình quân cả nước; tỷ lệ cán bộ là chuyên viên và tương đương chưa cao, bằng 84% bình quân cả nước; “số công chức có ngạch cán sự và tương đương cao nhất, chiếm 53,12% tổng số công chức, so với bình quân cả nước là 44,55%. Điều đó cho thấy chứng tỏ công chức đồng bằng sông Cửu Long còn trẻ. Về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đồng bằng sông Cửu Long cũng tụt hậu về mặt ngoại ngữ so với đội ngũ công chức trong cả nước. Song về mặt trình độ học tập chính trị thì “trình độ chính trị cao cấp có phần vượt trội hơn so với bình quân các tỉnh thành trong cả nước, có thể coi đây là mặt đáng biểu dương của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long”. Về cơ cấu độ tuổi, tỷ lệ độ tuổi cán bộ, công chức ở độ tuổi dưới 30 cao hơn tỷ lệ bình quân của 61 tỉnh thành (34,86% so với 24,53% cả nước) “đặc biệt, về tỷ lệ của đội ngũ công chức ở độ tuổi 50 trở lên thấp hơn so với bình quân cả nước (3,11% so với 9,24% của cả nước).
Từ kết quả phân tích các số liệu, đề tài đã đưa ra được những kết luận chung nhất về thực trạng của đội ngũ cán bộ, công chức vùng đồng bằng Nam Bộ như: về trình độ văn hoá và một số mặt trình độ về kiến thức chuyên môn cho thấy đồng bằng sông Cửu Long còn khoảng cách xa so với tỷ lệ tương ứng ở nhiều vùng trong cả nước, tỷ lệ văn hoá phổ thông ở tất cả các cấp đều thấp hơn mức trung bình cả nước; tỷ lệ lao động chưa được đào tạo không có chuyên môn kỹ thuật cao nhất nước, chiếm đến 92,23% - “đồng bằng sông Cửu Long chưa chuẩn bị đầy đủ yếu tố chất xám cần thiết nhất cho các bước khởi động ban đầu đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng bộ, nhiều nơi xảy ra tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”...
Phần IV, đề tài đưa ra 9 giải pháp cơ bản về xây dựng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đồng bằng sông Cửu Long như: xây dựng quy hoạch, chiến lược về đội ngũ cán bộ, công chức; xây dựng tiêu chuẩn cho các loại công chức ở địa phương; xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; củng cố kiện toàn trung tâm đào tạo, bồi dường cán bộ, công chức địa phương; từng bước đưa công nghệ tin học vào hoạt động quản lý nhà nước; tiếp tục bổ sung các chính sách đối với cán bộ, công chức; thực hiện các quy chế về cán bộ, công chức và giải pháp thứ chín là kiến nghị về tiêu chí phân bổ biên chế hành chính sự nghiệp. Nhóm nghiên cứu đã đề xuất tiêu chí tỷ lệ biên chế “được tính toán trên cơ sở xác định nội dung, yêu cầu về dịch vụ hành chính và sự nghiệp cho 100 người dân của các cấp chính quyền địa phương, có thể được điều chỉnh lên hoặc xuống tuỳ theo tình hình và nhu cầu thực tế của từng giai đoạn, là tiêu chí thống nhất trong cả nước, không tỉnh nào hơn tỉnh nào, đảm bảo sự đồng đều công bằng trong phục vụ xã hội...”.
Thành viên đề tài:
Từ khóa: