Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đối với quỹ xã hội và quỹ từ thiện
Chủ nhiệm:
Nguyễn Ngọc Lâm
Năm đăng ký:
2007
Năm nghiệm thu:
2008
Tóm tắt:
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đối với quỹ xã hội và quỹ từ thiện
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Ngọc Lâm
Năm đăng ký: 2007
Năm nghiệm thu: 2008
Xếp loại: Khá
Mục tiêu của đề tài:
Nghiên cứu và phân tích cơ sở thực tiễn và nhu cầu hoàn thiện khung pháp lý cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của quỹ xã hội, quỹ từ thiện, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện hành lang pháp lý cho sự ra đời và phát triển của quỹ xã hội, quỹ từ thiện, đồng thời tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc hướng dẫn, định hướng tạo điều kiện để quỹ hoạt động đúng hướng, có hiệu quả.
Kết cấu của đề tài: gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng khung pháp lý đối với quỹ xã hội và quỹ từ thiện.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức, hoạt động và xây dựng pháp luật đối với quỹ xã hội và quỹ từ thiện tại Việt Nam.
Chương 3: Đề xuất và kiến nghị về việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý cho các quỹ xã hội và quỹ từ thiện tại Việt Nam.
Những nội dung chính của đề tài:
Cơ sở lý luận của việc xây dựng khung pháp lý đối với quỹ xã hội và quỹ từ thiện đã được nhóm nghiên cứu đi sâu và làm rõ trong chương 1. Gồm các nội dung: khái niệm về quỹ; sự cần thiết và vai trò của quỹ xã hội và quỹ từ thiện. Các tổ chức xã hội nói chung, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hạn chế những khiếm khuyết do việc phát triển nền kinh tế thị trường gây ra. Các quỹ xã hội, quỹ từ thiện tham gia một cách mạnh mẽ vào việc đóng góp xây dựng chính sách tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển, đồng thời tích cực tham gia cung ứng dịch vụ công tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước tập trung giải quyết những vấn đề lớn mà xã hội đặt ra. Vai trò của quỹ xã hội, quỹ từ thiện trong việc phát huy các nguồn lực trong nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển xã hội theo định hướng XHCN; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; giáo dục công dân và tăng cường tinh thần đại đoàn kết dân tộc.
Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về quỹ xã hội và quỹ từ thiện: có vai trò, vị trí quan trọng trong xã hội và trong quá trình đổi mới đất nước; tổ chức và hoạt động của quỹ phải có mục đích rõ ràng, phải theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự trang trải, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật; khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia thành lập và hoạt động quỹ tại Việt Nam; tổ chức, cá nhân có quyền tự do lập quỹ. Hoạt động của quỹ phải trong khuôn khổ pháp luật và chịu sự quản lý của nhà nước; toàn bộ hệ thống chính trị có trách nhiệm với các tổ chức và hoạt động của các quỹ. Phần kinh nghiệm xây dựng pháp luật đối với quỹ xã hội và quỹ từ thiện của các nước trên thế giới được nhóm nghiên cứu đề cập đến các vấn đề như: nhận dạng Quỹ; văn bản điều chỉnh Quỹ; quản lý nhà nước đối với Quỹ; hoạt động; thuế.
Chương 2 thực trạng về tổ chức, hoạt động và xây dựng pháp luật đối với quỹ xã hội và quỹ từ thiện tại Việt Nam được phản ánh qua lịch sử phát triển của các quỹ xã hội và quỹ từ thiện. Hoạt động từ thiện, nhân đạo ở Việt Nam đã có từ xưa và trở thành một nếp sống đẹp, là truyền thống và văn hoá của dân tộc Việt Nam. Phương thức chính của hoạt động từ thiện là lập ra các quỹ hội để giúp đỡ những hội viên, những người gặp hoàn cảnh khó khăn, nghèo khổ; ví dụ các loại hình: lập các quỹ ruộng, quỹ thóc; nghĩa điền…Đặc điểm của quỹ xã hội và quỹ từ thiện tại Việt Nam cho thấy đó là tính xã hội- chính trị, tính tự nguyện, tính không vì lợi nhuận, tính thời đại.
Thực trạng tổ chức, hoạt động của các quỹ xã hội, quỹ từ thiện được nhóm nghiên cứu phân tích ở các nội dung : các loại hình tổ chức quỹ, các hình thức huy động quỹ, các hoạt động vì mục tiêu xã hội, từ thiện. Đề tài đề cập đến hoạt động của một số quỹ tiêu biểu như: Quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam; Quỹ vì người nghèo; Quỹ Hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam; Quỹ Khuyến học Việt Nam. Từ thực trạng đó, đề tài đã đánh giá những điểm mạnh và hạn chế của thực trạng hoạt động của các quỹ. Rút ra một số đặc điểm của công tác phát triển quỹ ở Việt Nam trong thời gian qua là: Quỹ được thành lập để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước và theo các phong trào do Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị- xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp phát động sáng lập; nguồn vốn ban đầu dành cho quỹ hoạt động chủ yếu là của Nhà nước và một số doanh nghiệp…
Thực trạng pháp luật về quỹ xã hội, quỹ từ thiện ở Việt Nam đó là các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của các quỹ xã hội, từ thiện (phân tích cụ thể những bất cập của từng văn bản liên quan đến hoạt động của các quỹ xã hội, từ thiện); tác động của văn bản pháp lý hiện hành đối với hoạt động của các quỹ xã hội và quỹ từ thiện tại Việt Nam.
Chương 3 của đề tài tập trung nêu những đề xuất kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đối với quỹ xã hội, quỹ từ thiện.
Mục đích của việc hoàn thiện khung pháp lý về tổ chức, hoạt động quỹ xã hội, quỹ từ thiện để thể chế hoá các quan điểm của Đảng và cụ thể hoá Điều 105 Bộ Luật Dân sự năm 2005; tạo hành lang pháp lý cho sự ra đời và phát triển các loại quỹ; kế thừa và đảm bảo tính thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật về quỹ và kinh nghiệm tổ chức, hoạt động và quản lý quỹ thời gian qua, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật của một số nước cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Các nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý quỹ xã hội, quỹ từ thiện: đảm bảo tính Đảng; phản ánh, đáp ứng tâm tư nguyện vọng của nhân dân; đảm bảo hiệu quả quản lý của nhà nước; đảm bảo tính kế thừa được truyền thống pháp luật và có sự tham khảo hệ thống pháp luật khác. Đề tài cũng đã đưa ra một số đề xuất bổ sung hoàn thiện khung pháp lý về quỹ xã hội, quỹ từ thiện như: phải xác định rõ phạm vi và đối tượng điều chỉnh; phân định điều kiện thủ tục thành lập; quyền hạn, nghĩa vụ của quỹ…Cần nghiên cứu sửa đổi khái nệm về quỹ; nghiên cứu phân loại quỹ để có quy định cho phù hợp; về tổ chức quỹ cần nghiên cứu quy định về chủ tịch quỹ và giám đốc quỹ cho phù hợp; về cơ chế chính sách cần tạo điêu kiện để việc thành lập và phát triển quỹ thuận lợi; về quản lý nhà nước: tập trung đầu mối quản lý tổ chức quỹ do Chính phủ phân công, tránh tình trạng tản mạn như hiện nay…
Một số kiến nghị cụ thể như: Cần sớm có đề án khảo sát toàn diện các loại quỹ phi lợi vụ ở Việt Nam, phân loại quỹ làm cơ sở hoàn thiện khung pháp lý về quỹ cho đầy đủ; bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý về quỹ xã hội, quỹ từ thiện đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, tiến tới xây dựng Luật Quỹ; tăng cường trao đổi hợp tác với các tổ chức quốc tế trong việc quản lý quỹ cũng như các chính sách với quỹ; tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về quỹ...
Thành viên đề tài:
Từ khóa: