Cơ sở lý luận và thực tiễn ban hành Luật về hội
Chủ nhiệm:
Nguyễn Ngọc Lâm
Năm đăng ký:
2001
Năm nghiệm thu:
2005
Tóm tắt:
Cơ sở lý luận và thực tiễn ban hành Luật về hội
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Ngọc Lâm
Năm đăng ký: 2001
Năm nghiệm thu: 2003
Xếp loại: Tốt
Mục tiêu của đề tài:
Xác định luận cứ lý luận và thực tiễn làm cơ sở xây dựng bộ luật về tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới
Kết cấu của đề tài: gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở khoa học ban hành Luật về hội.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của việc ban hành Luật về hội.
Chương 3: Đề xuất phương hướng xây dựng Luật về hội.
Những nội dung chính của đề tài:
Trong chương 1, đề tài đã làm rõ khái niệm hội với ý nghĩa là một thuật ngữ luật chính thức, cụ thể là: Hội là tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp được hình thành do sự tự nguyện liên kết của các công dân và tổ chức Việt Nam cùng chung mục đích, nhằm phục vụ lợi ích chung của hội và hội viên, góp phần thực hiện tốt chủ trương, chính sách pháp luật Nhà nước về lĩnh vực mà hội hoạt động, được thành lập và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Nhóm nghiên cứu cũng đã chỉ ra sự tồn tại phát triển của các hội là một tất yếu khách quan và hội là những thực thể quan trọng của tổ chức xã hội hiện đại. Đặc biệt trong xã hội Việt Nam giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội dân sự, các hội đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của mình đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Các quan điểm của Đảng về các hội quần chúng chính là cơ sở lý luận vững chắc cho công tác xây dựng và ban Luật về hội. Phần cơ sở khoa học cho việc xây dựng Luật về hội, đề tài đã có tham khảo các kinh nghiệm và pháp luật của một số nước trên thế giới về tổ chức phi Chính phủ.
Chương 2, phần cơ sở thực tiễn của việc ban hành Luật về hội, đề tài đi sâu phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của các hội ở Việt Nam. Thực tế thời gian qua có rất nhiều loại hình mang tính chất hội, hiệp hội. Về hoạt động các hội đã có nhiều đóng góp tích cực như: đoàn kết các thành viên, chăm lo bảo vệ lợi ích của các hội viên; đại diện quyền lợi của hội viên trong các quan hệ đối nội, đối ngoại; là cầu nối giữa các hội viên với các cơ quan nhà nước, giúp cho hội viên góp ý với nhà nước trong việc hoạch định chính sách đối với sự phát triển ngành và lĩnh vực kinh tế, xã hội liên quan đến hoạt động của hội; huy động có hiệu quả các nguồn lực trong nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; góp phần tuyên truyền, giáo dục, đưa các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước vào cuộc sống, tham gia xây dựng dân chủ cơ sở…bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế như: việc chấp hành của các hội, hiệp hội nhiều khi vượt quá điều lệ hội, hiệp hội đã đăng ký, thậm chí một số hội tổ chức và hoạt động không đúng với quy định của nhà nước, chưa có giấy phép thành lập đã tổ chức hoạt động, công tác điều hành của lãnh đạo một số hội còn lỏng lẻo, dẫn đến nội bộ mất đoàn kết; một số hoạt động còn hình thức, kém hiệu quả, chưa phản ánh được nguyện vọng, lợi ích của tập thể hội viên, hoặc có hội được thành lập nhưng không hoạt động. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do chưa có một hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ, thống nhất, đồng bộ để tạo môi trường pháp lý lành mạnh, thông thoáng và chặt chẽ làm căn cứ cho các hội, hiệp hội hoạt động và phát triển…
Thực trạng quản lý nhà nước đối với các hội ở Việt Nam được phản ảnh qua hệ thống các quy định pháp luật về quyền lập hội. Theo nhóm nghiên cứu, các quy định pháp luật thiếu tính thống nhất, đồng bộ do vậy chưa tạo điều kiện về mặt pháp lý một cách đầy đủ, rõ ràng, hợp lý cho việc thực hiện quyền lập hội của công dân, dẫn đến việc hạn chế hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của hội, làm suy giảm vai trò, tính tích cực, năng động của hội trong sự nghiệp đổi mới. Việc tăng cường quản lý và đổi mới quản lý nhà nước với các tổ chức phi Chính phủ là xu thế tất yếu và khách quan của các quốc gia trên thế giới. Từ năm 1993 trở lại đây, việc quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của các hội đã có sự phân công rõ ràng, việc quản lý hoạt động của các hội nước ngoài và quốc tế đã được quan tâm, bước đầu đạt những kết quả đáng khích lệ. Đề tài cũng chỉ ra những hạn chế của công tác quản lý nhà nước đối với các hội trong thời gian qua: trách nhiệm quản lý của cơ quan chuyên quản chưa rõ ràng. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành thiếu tính thống nhất, đồng bộ. Sự phối hợp giữa các cơ quan Đảng và chính quyền còn thiếu chặt chẽ. Chính quyền các cấp từ tỉnh đến huyện hoặc buông lỏng quản lý, hoặc kiềm chế thái quá với các hội; việc hướng dẫn hoạt động thanh tra, kiểm tra tuân thủ pháp luật của các hội được thực hiện thường xuyên; việc rút kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các hội chưa được coi trọng thường xuyên…
Chương 3, đề tài đề xuất các phương hướng xây dựng Luật về Hội, cụ thể:
- Xác định mục đích, phạm vi, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật
- Xác định các nguyên tắc trong hoạt động xây dựng Luật về hội
- Đề xuất một số nội dung của Luật về Hội về những quy định chung, về tổ chức và hoạt động của hội bao gồm các vấn đề điều kiện, thủ tục thành lập hội, hội viên, cơ quan của hội, quyền và nghĩa vụ của hội, hợp nhất, sáp nhập, liên hiệp, chia tách và gia hạn thời gian hoạt động, giải thể hội; về quản lý nhà nước đối với hội cần xác định các nội dung cụ thể trên các mặt: xây dựng luật, pháp lệnh trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và ban hành văn bản pháp quy thuộc thẩm quyền của Chính phủ liên quan đến hội, ban hành chính sách, biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho Hội phát triển, cấp giấy chứng nhận đăng ký, thành lập…hội, kiểm tra, thanh tra hội trong việc tuân theo các văn bản pháp luật….
Thành viên đề tài:
Từ khóa: