VỀ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Chủ nhiệm:
Diệp Văn Sơn
Năm đăng ký:
1995
Năm nghiệm thu:
1996
Tóm tắt:
Nghiên cứu tổ chức ấp Nam Bộ trong điều kiện cải cách hành chính.
Chủ nhiệm đề tài: Diệp Văn Sơn
Năm đăng ký: 1995
Năm nghiệm thu: 1996
Xếp loại: Khá
Mục tiêu của đề tài:
Phân tích thực trạng của ấp Nam Bộ hiện nay và những nhân tố mới đang xuất hiện nhằm tạo dựng một diện mạo mới của ấp. Đưa ra những giải pháp và kiến nghị về tổ chức ấp cho phù hợp với tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước.
Kết cấu của đề tài: gồm 7 chương
Chương 1: Điểm qua những mốc lịch sử của việc thay đổi các đơn vị hành chính qua các thời kỳ trên vùng đất Nam Bộ.
Chương 2: Và nét về môi trường tự nhiên, dân tộc và văn hoá.
Chương 3: Sự hình thành và tổ chức ấp Nam Bộ.
Chương 4: Những đặc điểm khác nhau giữa ấp Nam Bộ và làng (thôn) Miền Bắc.
Chương 5: ấp văn hoá mô hình cần được nghiên cứu nhân rộng để quản lý, xây dựng nông thôn mới.
Chương 6: Tổng hợp các số liệu và các ý kiến trong các phiếu khảo sát ấp và phỏng vấn 3 cấp chính quyền xung quanh những vấn đề về ấp.
Chương 7: Kết luận và kiến nghị.
Những nội dung chính của đề tài:
Trong chương 1, đề tài đã tổng lược những điểm mốc lịch sử của việc thay đổi các đơn vị hành chính qua các thời kỳ trên vùng đất Nam Bộ, từ thời kỳ các Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn thiết lập các đơn vị hành chính đầu tiên ở vùng đất Nam Bộ, đến thời kỳ thuộc Pháp và kháng chiến chống Pháp (1867- 1954), thời nguỵ quyền Sài Gòn (1954- 1975) và thời kỳ từ 1975 đến nay.
Chương 2, đề tài đã phác họa những nét cơ bản nhất về môi trường tự nhiên, dân tộc và văn hoá của vùng đất Nam Bộ. Đây là vùng đồng bằng, đất đai phì nhiêu và rộng nhất nước. Về tài nguyên thiên nhiên, do sự phân bố tự nhiên về đất đai do vậy nguồn tài nguyên chính của vùng Nam Bộ là lâm sản, ngoài ra còn có các nguồn tài nguyên phong phú khác như: lúa gạo, cây trái, hải sản cũng chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong cả nước. Khí hậu, do chịu ảnh hưởng ít nhiều khí hậu xích đạo nên có nhiệt độ và độ ẩm cao đều trong năm. Về dân tộc và đời sống văn hoá, khu vực này chủ yếu có bốn dân tộc chính là người Việt, người Khơ Me, người Hoa và người Chăm, đời sống văn hoá tinh thần rất phong phú do có sự giao thoa giữa các sắc thái văn hoá riêng biệt của từng dân tộc.
Chương 3, đề tài đề cập đến sự hình thành và tổ chức ấp Nam Bộ. Qua từng thời kỳ ấp Nam Bộ được hình thành, in đậm dấu ấn của hình thái kinh tế. Mô hình hành chính thời nhà Nguyễn là thôn - ấp. Đến thời kỳ chế độ nguỵ quyền Sài Gòn thì mô hình xã - ấp của chính quyền thân Pháp bị xoá sạch, thành lập “Hội đồng xã” xây dựng lại toàn bộ hệ thống chính quyền ở nông thôn Nam Bộ. Đến khoảng năm 1961- 1962 nhằm ngăn chặn phong trào cách mạng, chính quyền Diệm đã xây dựng mô hình “ấp chiến lược”, sau năm 1968 để thực hiện chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, chính quyền Sài Gòn đổi tên “ấp chiến lược” thành “ấp tân sinh” (ấp đổi mới), cũng trong thời kỳ đó còn có mô hình tổ chức ấp ở các vùng giải phóng, mô hình cơ sở xã - ấp đóng vai trò quyết định trong chiến tranh. Tổ chức cấp xã của chính quyền cách mạng lúc bấy giờ gồm 3 bộ phận: Đảng bộ lãnh đạo, chính quyền; Mặt trận; hội nông dân, phụ nữ, thanh niên, tôn giáo).
Ở chương 4, đề tài đã nghiên cứu và đưa ra những đặc điểm khác nhau giữa ấp Nam Bộ và làng (thôn) ở miền Bắc; ví dụ như làng đồng bằng sông Hồng là hoàn chỉnh, trọn vẹn. Sự vận hành của nó chặt chẽ và khép kín. Còn ấp ở đồng bằng sông Cửu Long, là một đơn vị cư trú tự nhiên đang mở. Ấp Nam Bộ không phân biệt chính cư và ngụ cư, trong khi đấy làng ở miền Bắc có sự phân biệt này rất nghiêm ngặt; hay như làng ở miền Bắc thường có hương ước, có đình làng trong khi ấp ở Nam Bộ không có hương ước hoặc là rất ít, do đó tính tự trị của ấp Nam Bộ không cao như làng ở miền Bắc. Về kinh tế giữa làng miền Bắc và ấp Nam Bộ cũng khác nhau hoàn toàn. Kinh tế nông nghiệp của bắc Bộ là nền kinh tế tự cung, tự cấp khép kín, trong khi nông thôn Nam Bộ tư hữu ruộng đất phát triển, góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hoá ra đời sớm. Sự khác biệt về dân cư và gia đình giữa hai miền thể hiện: nông dân ở miền Bắc là người sản xuất tự túc, trong khi nông dân ở Nam Bộ còn là thương nhân. Dân cư Nam Bộ có sự di động khá phổ biến, đây chính là nguyên nhân dẫn đến tính cộng đồng ấp Nam Bộ lỏng hơn so với làng ở Bắc Bộ.
Ở chương 5, đề tài đưa ra mô hình ấp văn hoá của tỉnh Cần Thơ (về tổ chức, nhân sự; bản quy ước ấp văn hoá; các thiết chế và cơ sở vật chất...) và cũng xem như là một trong những giải pháp nhằm nghiên cứu và nhân rộng để quản lý, xây dựng nông thôn mới.
Chương 6 của đề tài là chương tổng hợp những nhận xét rút ra từ các phiếu khảo sát về: số ấp có trong xã (diện tích, dân số); mức độ hiểu biết về quá trình lịch sử của ấp qua các thời kỳ; tỷ lệ số hộ nghèo của ấp; trình độ học vấn; đánh giá hoạt động của ấp...tổng hợp so sánh các ý kiến trả lời phỏng vấn về ấp của ba cấp chính quyền.
Chương 7 là chương cuối cùng, nhóm nghiên cứu đã đúc rút ra những kiến nghị trên cơ sở kết quả khảo sát thực trạng của ấp, tổng hợp các ý kiến trả lời phỏng vấn trên và của chính những người nghiên cứu về quy mô ấp ở Nam Bộ như sau: mỗi xã chỉ nên có từ 5-8 ấp; cần thiết ban hành sớm quy chế về tổ chức thôn, bản, ấp và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của trưởng thôn, bản, ấp.
Thành viên đề tài:
Từ khóa: