Nghiên cứu vấn đề già làng và chính sách đối với già làng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên

Chủ nhiệm: Huỳnh Thanh Bình

Năm đăng ký: 2002

Năm nghiệm thu: 2004

Tóm tắt:

Nghiên cứu vấn đề già làng và chính sách đối với già làng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên

Chủ nhiệm đề tài: Huỳnh Thanh Bình

Năm đăng ký:       2002

Năm nghiệm thu:  2004

Xếp loại:               Khá

Mục tiêu của đề tài:

Nghiên cứu và làm rõ vấn đề già làng và vai trò già làng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở buôn, làng Tây Nguyên, nhằm phát huy mặt tích cực cũng như hạn chế những mặt tiêu cực của vai trò già làng, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở các tỉnh Tây Nguyên vững mạnh.

Kết cấu của đề tài: gồm 4 chương

Chương 1: Vị trí, địa lý và đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên.

Chương 2: Một số đặc điểm về các dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên.

Chương 3: Buôn, làng, Già làng và hình thức cộng đồng tự quản trước đây.

Chương 4: Thực trạng buôn, làng, Già làng hiện nay và một số kiến nghị.

Những nội dung chính của đề tài:

Chương 1, đề tài đã phác hoạ một cách khái quát nhất về vị trí, địa lý và đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội vùng Tây Nguyên. Tây Nguyên bao gồm 4 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk và Lâm Đồng, đây là vùng đất có địa hình nhiều núi cao và hiểm trở, vùng cư trú của hàng chục dân tộc thiểu số bản địa. Kinh tế chủ yếu là nông lâm nghiệp, thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc. Tuy nhiên tốc độ phát triển kinh tế Tây Nguyên còn chậm, nạn đói, giáp hạt thường xảy ra. Tình hình an ninh trật tự xã hội ở một số vùng còn rất phức tạp.

Chương 2, đề tài đã đề cập đến một số đặc điểm về các dân tộc thiểu số bản địa trên vùng Tây Nguyên. Bao gồm các dân tộc: Ba Na; Gia Rai; Ê Đê; Kơ Ho. Nhìn chung các dân tộc thiểu số nói trên cuộc sống của họ thường gắn chặt với môi trường tự nhiên, kinh tế chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi, ngoài ra còn có nghề thủ công như: kéo sợi, dệt thổ cẩm, đan lát, làm gốm...đơn vị xã hội của các dân tộc thiểu số bản địa thường là làng (đối với người Ba Na, Gia Rai; buôn đối với người Ê Đê), điều hành công việc  trong làng thường là một người đứng đầu được gọi là Chủ làng, người đứng đầu buôn thường là người đầu bến nước, người chủ đất. Nhìn chung những người đứng đầu buôn, làng là những người có uy tín vì am hiểu phong tục tập quán, điều hành các công việc của buôn, làng từ mặt dân sự, quân sự, thần quyền và quan hệ bên ngoài. Chủ làng thường là cha truyền con nối.

Chương 3, đề tài đề cập cụ thể đến mô hình buôn, làng, già làng và hình thức cộng đồng tự quản trước kia, đó là buôn, làng cổ truyền các dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nguyên. Mọi quy định quan hệ và trách nhiệm của các thành viên trong cộng đồng buôn, làng được gọi là Luật tục. Luật tục quy định cụ thể tất cả các mối quan hệ dân sự hàng ngày như: vấn đề giám hộ; vấn đề xác định hộ gia đình; việc thay đổi họ, tên và xác định dân tộc; vấn đề xác định cha mẹ nuôi, con nuôi; về điều kiện kết hôn... Mỗi buôn, làng thông thường có một tập thể già làng (còn gọi là Hội đồng già làng) bao gồm chủ làng, tộc trưởng, chủ bến nước...là người điều hành các công việc chung thông qua tập thể già làng, theo tinh thần dân chủ dựa vào tập quán pháp (luật tục) có tính chất thần quyền đã được xác định từ xưa. Trong những năm chiến tranh, với chính sách khủng bố trắng, dồn dân, lập ấp. Các buôn, làng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hầu như đã bị phá huỷ hoàn toàn, thay vào đó là các trại tập trung, các ấp chiến lược. Sự đảo lộn về địa bàn cư trú, về sinh hoạt kinh tế, văn hoá, phong tục... buôn làng cổ truyền; bộ máy cộng đồng tự quản, các già làng và Hội đồng già làng cũng tan rã theo, không còn ảnh hưởng đến cộng đồng các dân tộc thiểu số. Suốt gần 3 thập kỷ sau giải phóng, già làng và vai trò già làng không được nhắc đến. Đời sống của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã được cải thiện đáng kể, các phong tục tập quán lạc hậu đã giảm nhiều.

Chương 4, đề tài phân tích thực trạng buôn, làng, già làng hiện nay và một số kiến nghị. Nhóm nghiên cứu đã phân tích qua hơn 30 gương người tốt, việc tốt của hầu hết các dân tộc thiểu số, họ là minh chứng sinh động để thấy rõ sự thay đổi to lớn của các dân tộc thiểu số. Đó là, trong các buôn, làng các dân tộc thiểu số hiện nay, người có uy tín và có sức thuyết phục nhất đối với bà con các dân tộc không phải là các người già (già làng), cũng không phải là cán bộ địa phương, các chức sắc tôn giáo, mà là những người biết cách làm ăn có hiệu quả, nuôi dạy con cái tốt, biết giúp đỡ mọi người cùng làm; không phân biệt người đó già hay trẻ, nam hay nữ, dân tộc hay người Kinh. Bên cạnh đó, đề tài đã khảo sát thực tế ở các buôn, làng, trực tiếp gặp gỡ 22 già làng tiêu biểu để tìm hiểu vai trò của họ đối với cộng đồng dân cư ở buôn, làng và chính quyền thôn xã. Nhìn chung, hầu hết các già làng này đều chỉ có vai trò đứng ra giải quyết các mâu thuẫn trong dòng họ. Về vai trò của già làng đối với buôn, làng hiện nay cho thấy một điều: những nơi hệ thống chính trị mạnh thì già làng không còn; nơi nào còn già làng thì hệ thống chính trị ở xã, làng, buôn đó yếu kém và ít có vai trò. Do vậy, đề tài đã đưa ra một số kiến nghị về già làng và vai trò già làng như: cần phải có kế hoạch rà soát tất cả số già làng đã có trong danh sách, phân tích từng đối tượng cụ thể ai trong số họ là tề, nguỵ cũ là chức sắc các tôn giáo, ai Fulro, ai là cơ sở của bọn phản động nằm trong dân phải khéo léo tìm cách sàng lọc loại dần ra. Đối với một số cán bộ lão thành tiêu biểu được cộng đồng dân cư tín nhiệm gọi là “già làng”, cần tạo điều kiện cho họ tham gia vào các tổ hoà giải, hội người cao tuổi... làm nòng cốt trong các phong trào. Tiếp tục kiện toàn, củng cố nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở thôn, buôn... cần phải để cho già làng và vai trò của già làng trở về với tự nhiên của họ, nếu thật sự trong cộng đồng dân cư có người tiêu biểu thì để cho cộng đồng dân cư tự tôn vinh.

Thành viên đề tài:

Từ khóa:

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về sinh hoạt tôn giáo người nước ngoài tại Việt Nam.

Loại nhiệm vụ:

Chủ nhiệm: Phạm Công Thoan

Lĩnh vực: Tôn giáo

Năm hoàn thành: 2016

Quản lý nhà nước đối với việc mở rộng tổ chức và hoạt động của dòng tu Công giáo ở Việt Nam hiện nay.

Loại nhiệm vụ:

Chủ nhiệm: ThS. Lê Thị Liên

Lĩnh vực: Tôn giáo

Năm hoàn thành: 2017

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠO CAO ĐÀI

Loại nhiệm vụ:

Chủ nhiệm: Ths. Đinh Quang Tiến

Lĩnh vực: Tôn giáo

Năm hoàn thành: 2018

Quan hệ giữa Giáo hội Phật giáo Việt Nam với các tổ chức, hệ phái, sơn môn Phật giáo và công tác quản lý nhà nước.

Loại nhiệm vụ:

Chủ nhiệm: Ths. Trần Thị Minh Nga

Lĩnh vực: Tôn giáo

Năm hoàn thành: 2016

Tình hình tôn giáo ở Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa và những vấn đề đặt ra.

Loại nhiệm vụ:

Chủ nhiệm: PGS.TS.Nguyễn Thanh Xuân

Lĩnh vực: Tôn giáo

Năm hoàn thành: 2017

Nghiên cứu vấn đề già làng và chính sách đối với già làng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên

Loại nhiệm vụ: Đề tài chỉ định

Chủ nhiệm: Huỳnh Thanh Bình

Lĩnh vực: Tôn giáo

Năm hoàn thành: 2004

Cộng đồng Hồi giáo Việt Nam trong hội nhập quốc tế

Loại nhiệm vụ: Đề tài chỉ định

Chủ nhiệm: ThS. Trần Thị Minh Thu

Lĩnh vực: Tôn giáo

Năm hoàn thành: 2018

Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát huy nguồn lực tôn giáo trong quá trình xây dựng và phát triển bền vững đất nước hiện nay

Loại nhiệm vụ: Đề tài tuyển chọn

Chủ nhiệm: TS. Vũ Chiến Thắng

Lĩnh vực: Tôn giáo

Năm hoàn thành: -1

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER Ở VIỆT NAM

Loại nhiệm vụ:

Chủ nhiệm: Nguyễn Phúc Nguyên

Lĩnh vực: Tôn giáo

Năm hoàn thành: 2017

Trang chủ    |    Sơ đồ Website    |    Liên hệ    |