Nghiên cứu các giải pháp xây dựng và phát triển cán bộ, công chức dân tộc thiểu số người Khmer
Chủ nhiệm:
Vũ Minh Bồng
Năm đăng ký:
2005
Năm nghiệm thu:
2006
Tóm tắt:
Chủ nhiệm đề tài: Vũ Minh Bồng
Năm đăng ký: 2005
Năm nghiệm thu: 2006
Xếp loại: Tốt
Mục tiêu của đề tài:
Nghiên cứu các giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer, cụ thể là đề xuất các giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách trong việc đào tạo, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer ở các tỉnh Tây Nam bộ, đồng thời đề xuất đổi mới nội dung chương trình, phương thức, phương pháp đào tạo cán bộ, công chức người dân tộc Khmer giai đoạn từ năm 2007-2015.
Kết cấu của đề tài: gồm 3 phần chính
Phần I: Điều kiện, đặc điểm của vùng Tây Nam bộ và vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức người Khmer đối với sự phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nam bộ.
Phần II: Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer qua các thời kỳ lịch sử và thực trạng của đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer hiện nay ở các tỉnh Tây Nam bộ.
Phần III: Phương hướng, mục tiêu và các giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức dân tộc người Khmer ở các tỉnh Tây Nam bộ giai đoạn từ năm 2007-2015.
Những nội dung chính của đề tài:
Mở đầu phần I, đề tài giới thiệu khái quát những điệu kiện, đặc điểm của vùng Tây Nam bộ (gồm 13 tỉnh, thành phố: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và thành phố Cần Thơ). Đặc điểm kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Tây Nam bộ có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế- xã hội và an ninh quốc phòng đối với cả nước. Đặc biệt đây là vùng đất có tính đặc thù về dân tộc và tôn giáo nơi tập trung đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống (dân tộc Khmer có 1,123 triệu người). Phum, sóc là tổ chức xã hội truyền thống của người Khmer.
Vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer ở vùng Tây Nam bộ được nhóm nghiên cứu phân tích ở các lĩnh vực: xây dựng chính quyền địa phương; phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương; xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Về quá trình, hình thành và phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer gắn liền với công tác dân tộc ở vùng đồng bào Khmer trong từng giai đoạn lịch sử của cách mạng miền Tây Nam bộ đó là, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đảng và Nhà nước ta đều đã có những chính sách dân tộc, chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ và các chức sắc tôn giáo người Khmer. Đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer đã phát huy được vai trò nòng cốt trong vùng đồng bào dân tộc Khmer, đập tan mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù góp phần vào việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nội dung chính của phần II, đề tài tập trung phân tích thực trạng của đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer hiện nay ở các tỉnh Tây Nam bộ.
Về số lượng, tổng số đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc Khmer hiện nay có: 7.633 người (chiếm 3% tổng số 250.000 cán bộ, công chức, viên chức địa phương). Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có 32 người, cấp huyện 87 người, cấp xã 396 người; đại biểu Quốc hội khoá XI va đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2009 có 2.575 người. So với tỉ lệ dân số thì đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người Khmer chiếm tỉ lệ thấp (6,8% so với dân số Khmer). Đặc biệt các ngành khoa học kỹ thuật, thuỷ sản, văn hoá, thiếu hẫng hụt cán bộ người dân tộc Khmer.
Thực trạng chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer đề tài đã phân tích theo các nhóm đối tượng: đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã; đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý; đội ngũ công chức chuyên môn nghiệp vụ; đội ngũ công chức nữ. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ,công chức người dân tộc Khmer còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa hầu hết chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. So với đội ngũ cán bộ, công chức dân tộc vùng Tây Nguyên trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức dân tộc Khmer thấp hơn nhiều. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ đại học của cán bộ, công chức dân tộc Khmer chỉ chiếm 11,5%, trong khi cán bộ, công chức dân tộc vùng Tây Nguyên là 14,13%. Theo điều tra khảo sát, hiện nay số cán bộ,công chức dân tộc Khmer tập trung chủ yếu ở hai ngành: giáo dục và y tế. Các ngành khác như: tài chính, ngân hàng, kinh tế, nông nghiệp, thủy sản, thủy lợi còn thiếu vắng rất nhiều… Nguyên nhân của tình trạng trên là do nguồn đào tạo cán bộ, công chức người dân tộc Khmer ở địa phương còn chậm phát triển, nhiều người mặc dù là dân tộc Khmer nhưng vẫn không thông thạo ngôn ngữ Khmer. Một đặc thù nữa là do phong tục tập quán của đồng bào Khmer là nam giới lớn lên hầu hết vào chùa đi tu, số lượng sư sãi các chùa rất nhiều, vì vậy rất thiếu nguồn nhân lực để đào tạo cho đội ngũ cán bộ, công chức các địa phương.
Thực trạng công tác quy hoạch và kế hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ, công chức người dân tộc Khmer chưa xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của từng địa phương. Vì vậy, tỉ lệ cán bộ, công chức là người dân tộc Khmer trong cơ cấu cán bộ, công chức nói chung còn thấp. Công tác tạo nguồn cũng còn gặp nhiều khó khăn như: các cơ sở đào tạo trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học trên địa bàn các địa phương còn ít, phân bổ chưa phù hợp, thiếu quy hoạch; việc dạy chữ Khmer chưa được đẩy mạnh, chưa đồng bộ và còn gặp nhiều khó khăn…Ngoài ra các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, công chức mặc dù đã được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, nhưng cũng chỉ đáp ứng được phần nào, do vậy còn rất nhiều khó khăn thách thức đối với đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer.
Phần III, đề tài đã đề xuất một số giải pháp cơ bản xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc Khmer:
- Công tác tạo nguồn cán bộ, công chức người Khmer (từ học sinh, sinh viên; từ các đơn vị cơ sở; thu hút số cán bộ, công chức người Khmer hiện đang công tác ở các vùng, miền khác và sinh viên người dân tộc Khmer sau khi tốt nghiệp các trường trở về quê hương công tác)
- Thực hiện công tác đào tạo, sử dụng cán bộ, công chức theo phương hướng mục tiêu của công tác quy hoạch (xây dựng kế hoạch đào tạo; đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo; quản lý và sử dụng cán bộ, công chức sau đào tạo)
- Thực hiện các chính sách ưu đãi, trợ cấp khó khăn;
- Thực hiện chính sách đầu tư đối với các cơ sở đào tạo.
Thành viên đề tài:
Từ khóa: