Chuyển đổi số trong hoạt động thông tin khoa học và công nghệ không đơn thuần chỉ là việc số hóa, tạo ra dữ liệu số hoặc việc ứng dụng công nghệ thông tin (công nghệ số) vào các hoạt động thông tin mà theo nghĩa rộng, đó là sự đổi mới toàn diện cơ chế hoạt động của thông tin KH&CN dựa trên dữ liệu số.
1. Đặt vấn đề
Thông tin là động lực thúc đẩy phát triển KH&CN ở tất cả các quốc gia. Trong kỷ nguyên số 4.0, phương thức quản lý thông tin KH&CN sẽ thay đổi theo hướng mở và hội nhập chung vào mạng lưới toàn cầu.
“Thông tin khoa học và công nghệ” là dữ liệu, dữ kiện, số liệu, tin tức được tạo ra trong các hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo. “Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ” là hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ, bao gồm các hoạt động liên quan đến thu thập, xử lý, phân tích, lưu giữ, tìm kiếm, phổ biến, sử dụng, chia sẻ và chuyển giao thông tin khoa học và công nghệ, các hoạt động khác có liên quan. (theo NĐ 11/2014/NĐ-CP về hoạt động thông tin khoa học và công nghệ).
Tại Việt Nam, các hệ thống thông tin KH&CN được phát triển theo hệ thống phân cấp quản lý của nhà nước, gồm có: i) hệ thống thông tin ở cấp độ quốc gia do Bộ KH&CN quản lý; ii) hệ thống thông tin do các bộ, ngành quản lý theo lĩnh vực; iii) hệ thống thông tin do các tỉnh, thành quản lý theo địa bàn hành chính; iv) hệ thống thông tin phục vụ nghiên cứu và phát triển của các tổ chức tại cơ sở (viện, trường).
Những ứng dụng được khai thác nhiều nhất hiện nay ở trong nước là thư viện số của các viện, trường và CSDL quản lý thông tin đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu ở các cấp. Nhiều tạp chí khoa học ở trong nước cũng đang chuyển dịch để thực hiện xuất bản điện tử và cung cấp truy cập mở cho người dùng.
“Chuyển đổi số” là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên công nghệ số. Chuyển đổi số bắt đầu từ những đột phá công nghệ số, nhưng chuyển đổi số không phải chỉ là công nghệ số, mà quan trọng hơn, chuyển đổi số là chấp nhận cái mới, do đó, chuyển đổi số là cuộc cách mạng về tư duy, nhận thức, thể chế, chính sách nhiều hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ. Tương tự như vậy, Chuyển đổi số trong hoạt động thông tin khoa học và công nghệ không đơn thuần chỉ là việc số hóa, tạo ra dữ liệu số hoặc việc ứng dụng công nghệ thông tin (công nghệ số) vào các hoạt động thông tin mà theo nghĩa rộng, đó là sự đổi mới toàn diện cơ chế hoạt động của thông tin KH&CN dựa trên dữ liệu số.
Hạ tầng dữ liệu có vai trò then chốt, quan trọng trong chuyển đổi số. Có thể nói rằng, dữ liệu trong hoạt động thông tin KH&CN chính là tài nguyên thông tin KH&CN số. Chuyển đổi số thông tin KH&CN sẽ đặt trọng tâm vào việc xây dựng các nền tảng CSDL mà trên đó có thể xây dựng nhiều loại ứng dụng khác nhau để cung cấp dịch vụ cho người dùng đầu cuối. Như vậy, Chuyển đổi số trong hoạt động thông tin khoa học cần một chiến lược chuyển đổi số tổng thể (dài hạn) hướng tới sự đổi mới toàn diện hệ thống vận hành về thông tin KH&CN của quốc gia.
2. Chuyển đổi số trong hoạt động thông tin khoa học của Viện
Không đứng ngoài các làn sóng phát triển công nghệ, trong giai đoạn làn sóng công nghệ số thứ 2, tin học hóa (2000-2015), Lãnh đạo Bộ Nội vụ đã giao Viện Khoa học tổ chức nhà nước xây dựng hai hệ thống dữ liệu cung cấp thông tin khoa học và công nghệ là Trang thư viện điện tử khoa học và Trang thông tin điện tử của Viện.
Đến giai đoạn làn sóng công nghệ số lần thứ 3, chuyển đổi số (từ 2015- nay), Bộ Nội vụ ban hành Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ ngành Nội vụ giai đoạn 2015 -2025 (theo Quyết định số 1585/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 16/10/2015), trong đó giải pháp hàng đầu thuộc nhóm giải pháp về thông tin, tuyên truyền để thực hiện Chiến lược đó là: “Chú trọng đầu tư xây dựng hệ thống, thông tin, tư liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ. Xây dựng và đưa vào khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quản lý khoa học của ngành Nội vụ.” Theo đó, lãnh đạo Bộ cũng đã giao cho Viện xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học và công nghệ của Bộ Nội vụ. Như vậy, trong những năm qua, Viện đã từng bước xây dựng và đưa vào hoạt động các hệ thống hạ tầng dữ liệu sẵn sàng để chuyển đổi số trong hoạt động thông tin khoa học. Cho đến nay, Viện đã có 02 hệ thống thông tin, 01 trang thông tin điện tử khoa học, 01 bản tin thông tin khoa học xuất bản điện tử hàng quý.
Về hệ thống nền tảng dữ liệu, Viện đã có đầy đủ để chuyển đổi số, tuy nhiên, về mặt nội dung thông tin cần phải có sự đầu tư và phối hợp của các nhà nghiên cứu để có được những thông tin thật sự chất lượng và hữu ích đối với người dùng. Vì trong kỷ nguyên số, hành vi của người dùng đang thay đổi mạnh mẽ với việc ứng dụng các công nghệ mới. Ví dụ như năm 2012, khi Thư viện khoa học điện tử của Viện đi vào hoạt động, rất nhiều người ở trong và ngoài Bộ Nội vụ liên hệ với Viện đăng ký tài khoản để được tiếp cận với những thông tin trên Trang thư viện khoa học. Nhiều người dùng sẵn sàng trả tiền cho những thông tin khoa học đó và quy chế của Thư viện khoa học điện tử thời điểm đó đã thay đổi và cho phép thu phí để cung cấp thông tin. Tuy nhiên, sau năm 2017, theo Quyết định 2856/QĐ-BNV ngày 05/12/2017, cơ cấu tổ chức của Viện không còn Thư viện khoa học mà chỉ còn nhiệm vụ biên tập phát hành các ấn phẩm thông tin, tư liệu khoa học, thông tin kết quả nghiên cứu khoa học… do vậy kinh phí để duy trì thư viện Khoa học điện tử không còn, kinh phí để bổ sung sách, báo, tạp chí khoa học bị cắt giảm rất nhiều hàng năm, do đó lượng người dùng truy cập giảm dần. Ngoài ra, các kênh thông tin cung cấp dữ liệu khoa học miễn phí và có phí phát triển ngày càng nhiều. Người dùng cần tìm hiểu nguồn thông tin tư liệu nào chỉ cần vào các trang tìm kiếm trên mạng như google, yahoo, bing… gõ thông tin thì họ sẽ dễ dàng tìm kiếm được thông tin cần thiết. Nhiều tạp chí khoa học ở trong nước và quốc tế xuất bản điện tử và cung cấp truy cập mở cho người dùng. Người dùng có rất nhiều cách để tiếp cận nguồn thông tin hữu ích.
Vì vậy, không chỉ Viện Khoa học tổ chức nhà nước mà ngay cả những đơn vị cung cấp thông tin khoa học của thư viện quốc gia, hay các bộ ngành, địa phương khác lượng người tiếp cận tìm kiếm thông tin cũng giảm dần… Đấy là xu thế tất yếu chung của toàn thế giới khi kỷ nguyên số phát triển. Lấy ví dụ một công ty cung cấp thông tin lớn của thế giới là Britannica, công ty cung cấp cho thị trường cuốn Bách khoa toàn thư Encyclopoedia Britannica trong hàng trăm năm (xuất bản lần đầu năm 1868). Sau 144 năm tồn tại, năm 2012 Britannica cũng đến lúc phải thông báo về bản in cuối cùng của nó cùng với thông điệp đưa ra vô cùng rõ ràng: “Từ điển Bách Khoa Toàn thư Britannica sẽ chỉ phát hành trên Internet”. Britannica hiểu rằng hành vi của khách hàng đang thay đổi mạnh mẽ với việc ứng dụng các công nghệ mới. Thay vì cố gắng bảo vệ mô hình kinh doanh cũ của họ, lãnh đạo công ty cố gắng hiểu nhu cầu của những khách hàng và chuyển đổi mô hình cung cấp dịch vụ đồng thời họ tập trung đầu tư vào chất lượng nội dung thông tin. Họ sử dụng những nhà khoa học hàng đầu trong các lĩnh vực để biên tập được các nội dung chất lượng tốt nhất phục vụ giáo dục và nghiên cứu.
3. Giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong hoạt động thông tin KH&CN
Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số đang diễn ra nhanh chóng ở các nước phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề chuyển đổi số đã trở thành yêu cầu cấp bách đối với mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tầm quan trọng của chuyển đổi số đã được thể hiện ở việc Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng đề án chuyển đổi số quốc gia.
Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong hoạt động thông tin KH&CN giai đoạn 2021 – 2025 và định hướng đến năm 2030 đã được xác định tại Đề án số 1198/QĐ-BNV ngày 18/11/2021 của Bộ Nội vụ, cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện quy chế, quy định pháp lý về chuyển đổi số, phát triển hạ tầng số và đảm bảo an toàn thông tin của Bộ Nội vụ theo lộ trình phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số tại Việt Nam. Trong đó, tập trung ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật bảo đảm sự kết nối, liên thông, chia sẻ hạn tầng kỹ thuật, dữ liệu giữa các hệ thống thông tin và bảo đảm ATTT mạng; ban hành chiến lược dữ liệu cấp Bộ phù hợp với Chiến lược dữ liệu quốc gia; cập nhật Kiến trúc Chính phủ điện tử (phiên bản 2.0) tại Bộ Nội vụ.
Hai là, phát triển hạ tầng mạng, nâng cấp hạ tầng CNTT dùng chung của Bộ và các đơn vị thuộc Bộ. Xây dựng và hoàn thiện CSDL, phát triển các nền tảng số của Bộ Nội vụ.
Ba là, tăng cường nghiên cứu, hợp tác với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước để đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ số phục vụ các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ và các hoạt động khác của Bộ, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số tại Bộ Nội vụ.
Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số, kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức của Bộ sẽ hiểu rõ và thực hiện đúng các quy chế, quy định pháp lý về chuyển đổi số, phát triển hạ tầng số và đảm bảo ATTT của Bộ.
Năm là, thu hút, đào tạo và phát triển nguồn lực CNTT. Trong đó, chú trọng việc chuẩn hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ATTT trong các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ. Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn về ứng dụng CNTT, bảo đảm ATTT và kỹ năng số cho lãnh đạo các cấp và cán bộ, công chức, viên chức trong các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ, chú trọng việc bồi dưỡng, tập huấn sử dụng các hệ thống thông tin nghiệp vụ của các đơn vị.
Lĩnh vực TT-TV KH&CN liên quan chặt chẽ đến tài nguyên thông tin KH&CN, trong đó có tài nguyên thông tin KH&CN số cũng cần nghiên cứu triển khai thực hiện chuyển đổi số. Mặc dù thời gian vừa qua chúng ta đã xây dựng được nguồn tài nguyên thông tin KH&CN số có giá trị phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, tuy nhiên nguồn tài nguyên số này còn nhiêù hạn chế cần được chú trọng phát triển trong bối cảnh chuyển đổi số.
Một trong những nội dung thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động thông tin KH&CN là cần tập trung xây dựng CSDL quốc gia về KH&CN. Cần nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện mô hình kiến trúc CSDL quốc gia về KH&CN; xây dựng và ban hành kiến trúc dữ liệu chung cho hệ thống CSDL quốc gia về KH&CN, các quy định pháp lý, kỹ thuật, công nghệ cho CSDL quốc gia về KH&CN.
Để đảm bảo hạ tầng dữ liệu cho chuyển đổi số, cần tiếp tục quan tâm phát triển nguồn tài nguyên số KH&CN, triển khai thực hiện truy cập mở đến tài nguyên thông tin KH&CN. Phát triển dữ liệu mở cần được chú trọng trong thời gian tới. Đồng thời cần nghiên cứu áp dụng mã định danh số cho đối tượng (DOI), hoàn thiện mô hình cấp và quản lý DOI ở quy mô quốc gia.
Quá trình chuyển đổi số tại Bộ Nội vụ trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả khả quan. Tuy nhiên, để Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 tại Bộ Nội vụ nói riêng và Việt Nam nói chung thành công, cần sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, huy động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực và chú trọng công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của toàn xã hội. Thực hiện chuyển đổi số là quá trình cần thiết để Việt Nam xây dựng thành công Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số trong tương lai.
Như vậy bài toán cho chuyển đối số trong hoạt động cung cấp thông tin khoa học và công nghệ của Viện không phải là hoạt động của một đơn vị cụ thể mà cần sự đầu tư và góp sức của tất cả các nghiên cứu của Viện nói riêng và của Bộ Nội vụ nói chung để có thể cung cấp được những tin khoa học và công nghệ cần thiết và chất lượng nhất. Các cấp ủy, chính quyền cần tiếp tục quan tâm, lãnh đạo sát sao, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nghiên cứu viên; tạo mọi điều kiện đầu tư cho chuyển đổi số của ngành khoa học tổ chức nhà nước đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và hội nhập quốc tế, xứng tầm là viện khoa học về tổ chức nhà nước./.
ThS. Nguyễn Thị Trang- Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ