Nghiên cứu cơ bản về khoa học tổ chức, tổ chức nhà nước
Chủ nhiệm:
TS. Chu Văn Thành
Năm đăng ký:
2004
Năm nghiệm thu:
2007
Tóm tắt:
Năm đăng ký: 2004
Chủ nhiệmChương trình: TS. Chu Văn Thành
Chủ nhiệm các đề tài nhánh:
TS. Dương Quang Tung
TS. Hà Quang Ngọc
TS. Nguyễn Minh Phương
Năm nghiệm thu: 2007
Xếp loại: Tốt[1]
Chương trình gồm 4 đề tài nhánh:
Đề tài nhánh 1- Một số vấn đề cơ bản của khoa học tổ chức và tổ chức hành chính nhà nước.
Đề tài nhánh 2- Khoa học và nghệ thuật lãnh đạo.
Đề tài nhánh 3- Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước và cán bộ.
Đề tài nhánh 4- Tổ chức Nhà nước Việt Nam 1945 - 2005.
I - ĐỀ TÀI: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA KHOA HỌC TỔ CHỨC VÀ TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Trên cơ sở luận chứng đối tượng nghiên cứu của khoa học tổ chức hành chính và phân tích quá trình phát triển của khoa học tổ chức hành chính nhà nước qua các thời kỳ với những lý thuyết và trường phái khác nhau, đề tài đã tổng hợp, hệ thống hóa, những kiến thức cơ bản, cần thiết nhất có liên quan đến khoa học tổ chức và khoa học tổ chức hành chính nhà nước nhằm làm rõ khung lý luận và hệ thống nội dung của khoa học tổ chức hành chính nhà nước.
Kết quả nghiên cứu của đề tài được thể hiện trong 7 chương:
Chương 1- Khái luận về tổ chức và tổ chức hành chính nhà nước, bao gồm các nội dung:1)Những vấn đề cơ bản của tổ chức như khái niệm, các loại hình, các yếu tố cơ bản, vai trò, tác dụng của tổ chức. 2) Tổ chức hành chính nhà nước: khái niệm, các yếu tố cơ bản, tính chất, các loại hình của tổ chức hành chính nhà nước và vị trí của nó trong quan hệ với tổ chức Đảng, cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan tư pháp, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp và tổ chức sự nghiệp.
Chương 2- Quá trình phát triển lý luận – các luận thuyết chủ yếu về tổ chức và tổ chức hành chính nhà nước: 1) Quá trình phát triển của tổ chức hành chính nhà nước qua các thời kỳ nô lệ, phong kiến. 2) Sự phát triển lý luận tổ chức và tổ chức hành chính nhà nước; lý luận tổ chức hành chính nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chương 3- Chức năng của tổ chức hành chính nhà nước: 1) Những vấn đề chung về chức năng của tổ chức hành chính như khái niệm, vai trò, phân loại và hệ thống chức năng của tổ chức hành chính; các phương pháp thực hiện chức năng tổ chức hành chính. 2) Phân phối chức năng của tổ chức hành chính: những nhân tố chế ước và nguyên tắc phân bổ chức năng hành chính.
Chương 4- Cơ cấu tổ chức hành chính: 1) Những vấn đề chung về cơ cấu của tổ chức hành chính như khái niệm, các yếu tố cơ bản của cơ cấu tổ chức hành chính, các tầng cấp và hình thức chủ yếu của cơ cấu tổ chức hành chính; tiêu chuẩn hợp lý hoá cơ cấu tổ chức hành chính. 2) Tầng cấp hoá và chuyên ngành hoá cơ cấu tổ chức hành chính; quan hệ giữa tầng cấp quản lý và phạm vi quản lý của tổ chức hành chính. 3) Thiết lập cơ cấu tổ chức hành chính, những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thiết lập cơ cấu tổ chức hành chính, nguyên tắc chung của việc thiết lập cơ cấu tổ chức hành chính,
Chương 5- Cơ chế tổ chức hành chính nhà nước: 1) Khái niệm và các nhân tố cấu thành cơ chế tổ chức hành chính nhà nước. 2) Những nội dung, đặc điểm của cơ chế tổ chức hành chính nhà nước; các nội dung chủ yếu và sự cải tiến của chế độ trách nhiệm, chế độ công chức, chế độ quản lý biên chế và chế độ thu, chi tài chính của tổ chức hành chính.
Chương 6- Văn hoá tổ chức hành chính: Lý luận chung về văn hoá tổ chức hành chính; đặc tính, yếu tố cấu thành và ảnh hưởng của văn hoá tổ chức hành chính đối với tổ chức hành chính, những biện pháp chủ yếu xây dựng văn hoá tổ chức hành chính
Chương 7- Môi trường tổ chức hành chính nhà nước. 1) Lý luận chung về môi trường tổ chức hành chính: khái niệm, đặc điểm và loại hình của môi trường hành chính ; quan hệ giữa tổ chức hành chính với môi trường. 2) Các yếu tố cơ bản của môi trường tổ chức hành chính: môi trường kinh tế, môi trường chính trị, điều kiện xã hội, môi trường tự nhiên của tổ chức hành chính; môi trường đặc thù của tổ chức hành chính.
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã góp phần bổ sung, làm rõ hơn những nội dung cơ bản, chủ yếu của khoa học tổ chức và tổ chức nhà nước mà hiện được coi là môn khoa học đang trong quá trình hình thành và phát triển ở nước ta.
II - ĐỀ TÀI: KHOA HỌC VÀ NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO
Đề tài nghiên cứu sự hình thành, phát triển của khoa học lãnh đạo và làm rõ những tri thức cơ bản về khoa học lãnh đạo; các mâu thuẫn nội tại trong hoạt động lãnh đạo và tính quy luật chung của nó; tổng hợp những kinh nghiệm lãnh đạo thành những nguyên tắc lãnh đạo, giúp cho các nhà lãnh đạo có những kiến thức cần thiết trong hoạt động lãnh đạo đạt hiệu suất cao.
Kết quả nghiên cứu của đề tài được thể hiện trong 10 chương:
1) Các khái niệm cơ bản của khoa học lãnh đạo; sự hình thành, phát triển của khoa học lãnh đạo trong lịch sử loài người;
2) Sự phát triển các thể chế lãnh đạo trong lịch sử;
3) Quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo;
4) Chức năng lãnh đạo và quyết sách lãnh đạo;
5) Lựa chọn và xác lập cơ cấu tổ chức; nhận thức về môi trường lãnh đạo;
6) Khoa học “dùng người” trong hoạt động lãnh đạo; Phép dùng người trong tư tưởng Hồ Chí Minh;
7) Phương pháp lãnh đạo;
8) Nghệ thuật lãnh đạo và thương thuyết trong hoạt động lãnh đạo;
9) Rèn luyện phẩm chất, tác phong của người lãnh đạo;
10) Đánh giá, bình xét hoạt động lãnh đạo.
Khoa học lãnh đạo có hai đặc trưng cơ bản là tính tổng hợp và tính ứng dụng. Tính tổng hợp của khoa học lãnh đạo chính là tính đan xen của nhiều khoa học như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học tư duy, đặc biệt là với nhiều ngành khoa học hiện đại. Cơ sở của sự đan xen đó chính là khoa học về con người - với ý nghĩa là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Nghiên cứu quy luật vận động của mâu thuẫn giữa chủ thể lãnh đạo và khách thể lãnh đạo, tức là mâu thuẫn cơ bản của hoạt động lãnh đạo, chính là nghiên cứu các quan hệ xã hội, thượng tầng kiến trúc, đó cũng là lĩnh vực nghiên cứu của khoa học xã hội.
Khoa học lãnh đạo của Việt Nam, tất nhiên phải tổng kết những kinh nghiệm chung của hoạt động lãnh đạo của loài người, tham khảo những học thuyết, lý luận có liên quan của các nước trên thế giới, nhưng cũng không thể tách rời hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước. Chúng ta không nên máy móc, rập khuôn áp dụng hoàn toàn các lý thuyết của quốc gia khác mà cần phải xây dựng khoa học lãnh đạo trên cơ sở kế thừa, tiếp thu truyền thống của cha ông ta và lựa chọn tiếp thu những những kinh nghiệm thế giới tương thích với điều kiện nước ta.
III - ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC VÀ CÁN BỘ
Phần một của đề tài đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và tổ chức bộ máy nhà nước. Đồng thời phân tích rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam trên các phương diện: vai trò của tổ chức và tổ chức bộ máy nhà nước, mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trên cơ sở đó, đề tài nêu lên phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và tổ chức nhà nước vào việc xây dựng bộ máy nhà nước ta hiện nay.
Về vai trò của công tác tổ chức và tổ chức nhà nước, Hồ Chí Minh khẳng định: Công tác tổ chức có vai trò quan trọng quyết định một phần lớn đến sự vững mạnh của Đảng, bộ máy nhà nước, đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng."Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo, thì lực lượng ấy sẽ làm xoay chuyển trời đất, bao nhiêu thực dân và phong kiến cũng sẽ bị lực lượng ấy đánh tan". Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước pháp quyền, hợp pháp, hợp hiến, dân chủ và coi trọng tính hiệu lực, hiệu quả thực tế; có một cơ cấu tổ chức và một cơ chế hoạt động thích ứng, phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam đương thời, mang tính khoa học về chính trị học, xã hội học, luật học, tổ chức học.
Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước mới là quyền lực thuộc về nhân dân, bảo đảm tham gia quản lí nhà nước của nhân dân; tập trung dân chủ; nhà nước của toàn dân, mang tính liên hiệp, tính toàn quốc, tính thực tế, liêm khiết, tính hiệu quả, bình đẳng giúp đỡ nhau giữa các dân tộc; cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, am hiểu thực thi đúng pháp luật, vừa hồng vừa chuyên; Đảng lãnh đạo việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước…
Điểm nổi trội của mô hình nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng một chính quyền mạnh, chính quyền sáng suốt, chính quyền của dân, do dân và vì dân; một Nhà nước hợp hiến của dân tộc Việt Nam; vừa giữ vững bản chất giai cấp, vừa phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân tộc; vừa thấm đượm tinh thần truyền thống lại mang nhiều yếu tố hiện đại; có sự kết hợp tài tình, linh hoạt luật pháp với đạo đức; một nhà nước coi trọng hiệu quả hoạt động thực tế...
Thực chất vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức bộ máy Nhà nước vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là học tập, làm theo tư tưởng về mô hình, nguyên tắc; phong cách, phương pháp và những việc làm, ứng xử thực tế của Người để kiến tạo, củng cố, hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong suốt quá trình tổ chức, lãnh đạo giành chính quyền, xây dựng bộ máy nhà nước với cương vị là người đứng đầu bộ máy nhà nước ấy.
Trong phần hai – Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, đề tài đã tập trung vào các tư tưởng và kinh nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa trực tiếp đối với quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước hiện nay.
- Nhận thức đúng đắn yêu cầu Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó các cơ quan nhà nước có vai trò quan trọng trong quản lý, phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
- Đẩy mạnh công tác quy hoạch cán bộ, áp dụng nhiều biện pháp, chính sách để có thể thu hút, sử dụng những người có đức, có tài phục vụ cho nền công vụ.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức gắn với đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng hướng tới xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, đủ tài, “vừa hồng”, “vừa chuyên”, thực sự đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo và quản lý từ Trung ương đến cơ sở.
- Xây dựng chế độ đãi ngộ hợp lý đảm bảo để người có năng lực có đóng góp có hưởng thụ tương xứng, xoá bỏ dần tình trạng người làm ít cũng được hưởng như người làm nhiều, người có tài năng cũng như người không làm được việc.
- Thay đổi căn bản cách đánh giá cán bộ, công chức. Chú trọng tới thước đo hành động, nói đi đôi với làm, tận tuỵ, công bộc của dân, biết đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chân lý, chống chủ nghĩa cá nhân, giặc nội xâm trong lòng, lấy kết quả và hiệu quả công việc để đánh giá, khen thưởng, bổ nhiệm cán bộ.
- Chống bệnh quan liêu trong công tác cán bộ. Có biện pháp đẩy mạnh hơn nữa việc quần chúng, nhân dân giới thiệu cán bộ cho Đảng và Nhà nước để bổ nhiệm, đề bạt vào các chức vụ của Đảng và Nhà nước. Đề cao trách nhiệm của những người đứng đầu cơ quan đơn vị trong việc giới thiệu và quyết định bổ nhiệm cán bộ; khắc phục tình trạng giới thiệu, bổ nhiệm cán bộ mang tính chủ quan, áp đặt, thiếu dân chủ.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, văn bản pháp về cán bộ, công chức nhà nước. Sớm xây dựng Luật công vụ, Luật đạo đức công chức và các văn bản khác để công tác cán bộ, công chức của nhà nước pháp quyền thực sự được thực hiện trong các khuôn khổ của luật pháp.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc phổ biến và học tập các quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong đội ngũ cán bộ, công chức, làm cho các tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm sâu vào các hoạt động cụ thể của mỗi người cán bộ, công chức và của các cơ quan làm công tác tổ chức cán bộ, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
IV - ĐỀ TÀI: TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 1945- 2005
Đề tài đã tập trung phân tích làm rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, từng loại cơ quan nhà nước và sự thay đổi về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ cụ thể cũng như nhân sự chủ chốt của các cơ quan đó qua các thời kỳ lịch sử: từ 1945 đến 1960; từ 1960 đến 1980; từ 1980 đến 1992; từ 1992 đến 2005.
1) Về Quốc hội. Xuyên suốt 60 năm hình thành và phát triển, Quốc hội Việt Nam luôn luôn được xác định là cơ quan đại biểu tối cao của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cũng là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng gắn liền với chức năng thành lập các cơ quan nhà nước ở trung ương, thẩm quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, về các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Từ khi là Nghị viện nhân dân theo Hiến pháp 1946 cho đến ngày nay, tổ chức và hoạt động của Quốc hội đã có những bước đổi mới như việc tổ chức các Uỷ ban của Quốc hội, về nhiệm kỳ, việc thành lập các Hội đồng của Quốc hội v.v. Tuy nhiên, mỗi bước đổi mới của Quốc hội từ vị trí, nhiệm vụ, chức năng cho đến cơ cấu tổ chức đều thể hiện sự kế thừa và phát triển của chế định quyền lực nhà nước quan trọng này trong cấu trúc thống nhất của toàn bộ Bộ máy nhà nước Việt Nam ở trung ương.
2) Nguyên thủ quốc gia là một chế định quyền lực quan trọng trong cấu trúc quyền lực của các quốc gia dân chủ. Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước không những là nguyên thủ quốc gia đứng đầu bộ máy nhà nước mà còn là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Hiến pháp năm 1980 thay thế chế định Chủ tịch nước bằng chế định Hội đồng Nhà nước, là nguyên thủ quốc gia tập thể của Việt Nam đồng thời là cơ quan thường trực cao nhất giữa hai kỳ họp của Quốc hội. Đến Hiến pháp 1992, chế định về Chủ tịch nước được tái thiết lập và có những thay đổi về cơ bản so với Hiến pháp 1980. Vị trí của Chủ tịch nước trong Bộ máy nhà nước được quy định như sau: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Là nhân vật trung tâm chính trị, Chủ tịch nước, theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, có quyền hạn trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và cả tư pháp.
3) Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước kia và Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay là một cơ quan trong hệ thống quyền lực nhà nước, có vị trí, vai trò được xác định rõ trong các Hiến pháp, đó là “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của toàn quốc” (Hiến pháp 1946); “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của cả nước” (Hiến pháp 1960 và Hiến pháp 1992) và “Chính phủ là cơ quan chấp hành và cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” (Hiến pháp 1980).
Tuy vai trò, chức năng của Chính phủ qua 4 bản Hiến pháp và trải qua 15 nhiệm kỳ có những khác nhau nhất định, nhưng về thực chất, Chính phủ luôn là cơ quan thực thi quyền hành pháp, là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Theo đó, trong mối quan hệ với Quốc hội (cơ quan lập pháp), Chính phủ có vai trò là cơ quan chấp hành, tổ chức thực hiện các Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết do Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Đồng thời Chính phủ còn có chức năng trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Mặt khác, với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ có vị trí, chức năng riêng, có sự độc lập nhất định trong quản lý, điều hành đất nước. Chính phủ được quyền ban hành các văn bản pháp quy và lãnh đạo toàn bộ bộ máy hành chính Nhà nước từ Trung ươngđến cơ sở.
Mô hình tổ chức của Chính phủ được quy định theo Hiến pháp hiện hành thể hiện sự kế thừa kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Chính phủ đã được xác định trong các bản Hiến pháp trước đây, đồng thời Chính phủ cũng như toàn bộ hệ thống các cơ quan hành pháp vẫn đang trong tiến trình cải cách nhằm xây dựng được một nền hành chính thực sự hiệu quả, hiện đại và đáp ứng được các yêu cầu của thời đại mới.
4) Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương các cấp. Kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh đầu tiên (Sắc lệnh 63 – SL, ngày 28/12/1945) thể chế hoá về mặt pháp luật việc tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương đã từng bước được củng cố, kiện toàn và có nhiều đóng góp trong việc phát triển kinh tế – xã hội địa phương, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Ngày nay, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương các cấp cần phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi một mặt mở rộng quyền chủ động của các địa phương, tăng cường dân chủ cơ sở cũng như sự tham gia của nhân dân vào giải quyết các công việc của địa phương, mặt khác, phải củng cố kỷ cương Nhà nước, đảm bảo nền hành chính nhà nước thống nhất, thông suốt, khắc phục tình trạng cục bộ địa phương, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước.
5) Các cơ quan tư pháp ngay từ khi được thiết lập đã giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Theo Hiến pháp 1946, các cơ quan tư pháp ở Việt Nam gồm có các Toà án và từ đó đến nay, Toà án luôn là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao cho nhiệm vụ xét xử. Bằng hoạt động xét xử của mình, Toà án thực hiện quyền tư pháp nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của xã hội.
Cùng với sự phát triển của đất nước, tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án đã từng bước được kiện toàn từ trung đến địa phương. Sau những lần cải cách tư pháp, tổ chức hệ thống toà án đã có những thay đổi nhất định. Hệ thống các Toà án được chuyển từ Toà án sơ cấp, đệ nhị cấp và thượng thẩm như trong Hiến pháp 1946 sang hệ thống các toà án nhân dân được tổ chức theo các cấp hành chính như hiện nay (ở Trung ươngcó Toà án nhân dân tối cao, ở địa phương có Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân cấp huyện). Qua 60 năm tồn tại và phát triển, tuy có một số thay đổi về tổ chức và thẩm quyền nhưng vị trí, vai trò cũng như chức năng của các cơ quan Toà án trong hệ thống các cơ quan nhà nước luôn được đề cao.
Viện Kiểm sát nhân dân được chính thức ra đời từ tháng 4/1958, khi Quốc hội quyết định thành lập Viện Công tố nhân dân Trung ương. Sau Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1960 được ban hành. Hệ thống Viện Kiểm sát được tổ chức từ cấp Trung ươngđến cấp huyện và hoạt động theo nguyên tắc đặc thù là tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành (theo chế độ thủ trưởng). Hiện nay, các Viện Kiểm sát nhân dân từ Trung ươngđến địa phương tồn tại bên cạnh Toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp để thực hành quyền công tố và thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Qua gần 50 năm kế thừa và phát huy những thành quả và kinh nghiệm hoạt động của Viện Công tố trong cách mạng dân tộc, dân chủ, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự giám sát thường xuyên của Quốc hội, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, tổ chức xã hội, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, ngành Kiểm sát đã không ngừng phấn đấu và trưởng thành trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm các quyền dân chủ của nhân dân.
Trải qua 60 năm (1945-2005) hình thành và phát triển, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuy có những thay đổi về cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ cụ thể nhưng luôn giữ vững bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bộ máy nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngay từ khi mới hình thành là thiết chế biểu hiện tập trung quyền lực nhân dân, đồng thời là công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền lực ấy. Là trung tâm của hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước không phải là tập hợp giản đơn các cơ quan nhà nước mà là hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ươngxuống địa phương, được tổ chức theo những nguyên tắc chung, thống nhất và tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Trong đó, các cơ quan trong bộ máy nhà nước có sự liên kết, tác động qua lại với nhau, hỗ trợ cho nhau và vận hành một cách nhịp nhàng để cùng thực hiện những mục tiêu chung.
[1] Trước thời điểm Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Quyết định 1666/QĐ-BNV ngày 2/12/2009 về Quy chế quản lý hoạt động khoa học, công nghệ của Bộ Nội vụ,các đề tài nghiệm thu được xếp loại: Tốt – Khá – Trung bình (Đạt yêu cầu)
Thành viên đề tài:
Từ khóa: