Quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức Tin lành chưa được công nhận ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp.
Chủ nhiệm:
Ths. Thiều Thị Hương
Năm đăng ký:
-1
Năm nghiệm thu:
-1
Tóm tắt:
1. Mục tiêu: Từ thực trạng tình hình hoạt động các tổ chức Tin lành chưa được Nhà nước và công tác quản lý nhà nước đối với đạo Tin lành ở Việt Nam hiện nay; đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động các tổ chức Tin lành chưa được Nhà nước công nhận.
2. Kết cấu của Đề tài
Ngoài phần mở đầu kết luận, tài liệu tham khảo, Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề liên quan đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng các tổ chức tin lành chưa được công nhận và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam
Chương III: Những vấn đề đang đặt ra – Đề xuất, kiến nghị giải pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức Tin lành chưa được công nhận ở Việt Nam.
3. Nội dung chính của đề tài
a, chương 1, gồm: 05 tiết. Ngoài tiết đề cập đến các khái niệm liên quan (như: Tên gọi đạo Tin lành, tôn giáo và hoạt động tôn giáo, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo), 04 tiết còn lại của chương 1 tập trung làm rõ những nội dung cơ bản và kết quả đạt được trong công tác quản lý nhà nước (QLNN) đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua; nghiên cứu so sánh chính sách, pháp luật liên quan đến tôn giáo của một số nước có đặc điểm tôn giáo hoặc thể chế chính trị tương đồng, như Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Singapore,... và rút ra một số bài học: (1) Không quốc gia nào không thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo và thực hiện quản lý hoạt động tôn giáo thông qua kiểm soát tài chính của tổ chức tôn giáo; (2) Không có cách thức quản lý riêng cho hoạt động của đạo Tin lành ở cả những nước có đa số dân cư theo đạo Tin lành và cả những nước đạo Tin lành chỉ là tôn giáo thiểu số; (3) Hầu hết các nước đều đề ra chính sách tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo, quyền bình đẳng về tôn giáo trước pháp luật mặc dù thể chế chính trị, văn hóa, tôn giáo ở mỗi nước không giống nhau; (4) Một số nước trên thế giới áp dụng hình thức đăng ký hoạt động tôn giáo, khá gần với thực tế pháp luật về tôn giáo của Việt Nam; (5) Ở Việt Nam, việc thành lập tổ chức tôn giáo được tiếp cận dưới góc độ là một trong ba nhu cầu (giáo sĩ, giáo sở, kinh sách) của người theo đạo. Đây là điểm khá khác biệt giữa luật pháp tôn giáo của Việt Nam với nhiều nước trên thế giới.
b, chương 2, đề tài khái quát về đạo Tin lành trên thế giới và đạo Tin lành ở Việt Nam; Phân tích, đánh giá thực trạng các tổ chức Tin lành chưa được công nhận ở Việt Nam hiện nay và rút ra một số nhận xét, đánh giá về:Giáo lý, Tổ chức, Xu hướng vận động, Chức sắc, Thực trạng hoạt động, Thời gian hình thành, Quan hệ trong và ngoài nước, Ảnh hưởng; Phân tích thực trạng công tác và kết quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành ở Việt Nam và rút ra một số kinh nghiệm từ thực tiễn công nhận các tổ chức Tin lành.
c, chương 3, từ những đúc rút vấn đề đang đặt ra cho công tác quản ký nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức Tin lành chưa được công nhận ở Việt Nam, như những vấn đề đặt ra từ chính thực trạng tình hình các tổ chức Tin lành chưa được công nhận hiện nay, từ thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức Tin lành chưa được công nhận ở Việt Nam hiện nay, từ bối cảnh trong nước và quốc tế đang tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức Tin lành chưa được Nhà nước công nhận tiếp tục phát triển,… ; đề tài đề xuất 10 giải pháp trước mắt, bao gồm: Tiếp tục thực hiện việc cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo theo điểm nhóm đối với các tổ chức Tin lành chưa được công nhận; Tuyên truyền, phổ biến để các tổ chức Tin lành chưa được công nhận, nhất là các tổ chức có thực lực, hiểu được lợi ích của việc được Nhà nước công nhận tổ chức tôn giáo; Tạo điều kiện cho các tổ chức Tin lành chưa được công nhận có điều kiện để kê khai thực trạng, tình hình hoạt động với cơ quan nhà nước; Khảo sát, thẩm định khai trình của các tổ chức Tin lành chưa được công nhận và dựa vào các tiêu chí: thời gian hình thành ở Việt Nam, xu hướng Thần học, số lượng tín đồ, phạm vi hoạt động, quan hệ quốc tế, đường hướng hoạt động, tôn chỉ mục đích,... để phân thành 04 nhóm; Hướng dẫn các tổ chức Tin lành thuộc nhóm 1 và 2 làm hồ sơ đề nghị cấp đăng ký hoạt động tôn giáo hoặc công nhận thành lập Ban Đại diện hoặc một dạng liên hiệp cho các nhóm Tin lành đồng tín lý; Đối với các tổ chức Tin lành đã được Nhà nước công nhận, một mặt hướng dẫn các tổ chức củng cố bộ máy tổ chức theo hướng độc lập, tự chủ, tuân thủ pháp luật, đồng hành cùng dân tộc. Đồng thời tuyên truyền, vận động và tạo điều kiện để các tổ chức tiếp nhận các nhóm, tổ chức Tin lành chưa được công nhận đồng tín lý để có chung đầu mối quản lý; Đối với những chức sắc là người sáng lập, nắm giữ vai trò lãnh đạo, trong các tổ chức Tin lành chưa được công nhận, cần giúp họ thay đổi cách nhìn đối với công tác tôn giáo, từng bước hóa giải những vướng mắc trong quá khứ để chuyển hóa thái độ của họ đối với chính quyền; Tiếp tục đáp ứng nhu cầu thuê địa điểm hợp pháp cho các tổ chức Tin lành chưa được công nhận để tổ chức các hoạt động tôn giáo chính đáng trong dịp lễ trọng; Đẩy mạnh việc hướng dẫn đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo hợp pháp trong nước; Tiến hành tổng kết thực tiễn công tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo nói riêng kể từ khi đổi mới đến nay, làm cơ sở để hoàn thiện pháp luật, xây dựng chính sách tổng thể về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ hội nhập.
Đề tài cũng đề xuất 09 giải pháp lâu dài quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tin lành chưa được công nhận ở Việt Nam. Đồng thời đưa ra các kiến nghị với Quốc hội, với Bộ Nội vụ,với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao,với Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Thành viên đề tài:
Từ khóa: